Tình hình sốt rét
Tình hình sốt rét tháng 5/2009 so với cùng kỳ 2008
Bệnh nhân mắc sốt rét (BNSR):
Cả khu vực tăng 18.58%, trong đó miền Trung tăng 21.73%, Tây Nguyên tăng13.66%.
-5 tỉnh có tỷ lệ BNSR giảm là Quảng Ngãi 60.00%, Đà Nẵng 33.33%, Bình Định 29.17% , Quảng Bình 22.22% và Kon Tum 4.03%.
-9 tỉnh có tỷ lệ BNSR tăng là Quảng Nam 70.69%,Bình Thuận 65.71%, Gia Lai 65.71%, Quảng Trị 63.41%, Ninh Thuận 45.12%, Phú Yên 26.92%, Thừa Thiên – Huế 16.67%, Khánh Hòa 12.38% và Đăk Nông 3.45% (Đắc Lắc không tăng, không giảm).
Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR):
Cả khu vực tăng 93.59%, trong đó miền Trung tăng112.24% và Tây Nguyên tăng 66%.
-2 tỉnh có tỷ lệ KSTSR giảm là Quảng Ngãi 45.46% và Thừa Thiên- Huế 17.19%.
-13 tỉnh có tỷ lệ tăng là Quảng Nam 261.25%, Gia Lai 170.02%, Đăk Lăk 153.99%, Khánh Hòa 113.23%, Ninh Thuận 112.90%, Bình Thuận 102.23%, Kon Tum 75.32%, Quảng Trị 66.65%, Đà Nẵng 53.09%, Phú Yên 28.13%, Bình Định 21.37%, Đăk Nông 2.86% và Quảng Bình 0.22%.
Sốt rét ác tính (SRAT):
Có 5 ca, tăng 2 ca so với cùng kỳ, trong đó Ninh Thuận 3 ca, Quảng Bình và Đăk Lăkmỗi tỉnh 1 ca.
Tử vong sốt rét (TVSR):
Không có tử vong do sốt rét xảy ra.
 |
Trèo đèo, lội suối vượt ngàn chông gai để đến những vùng miền xa xôi -nơi có sốt rét lưu hành (ảnh: Thanh Tuấn) |
Tình hình sốt rét 5 tháng đầu năm 2009 so với cùng kỳ năm 2008
Bệnh nhân mắc sốt rét (BNSR):
Cả khu vực tăng 1.5%, trong đó miền Trung giảm 2.46%, Tây Nguyên tăng6.99%. Các tỉnh có tỷ lệ BNSR tăng cao là Bình Thuận 53.85%, Gia Lai 36.22%, Quảng Trị 36.14%, Phú Yên 13.45%.
Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR):
Cả khu vực tăng 43.66%, trong đó miền Trung tăng51.12% và Tây Nguyên tăng 34.58%. Đáng lưu ý là 11/15 tỉnh có tỷ lệ KSTSR tăng là Khánh Hòa (117.47%,) Gia Lai (96.24%), Quảng Nam (79.10%), Bình Thuận (69.16%), Đăk Lăk (50.54%), Thừa Thiên-Huế (49.91%), Ninh Thuận (40.02%), Bình Định (29.46%),Quảng Ngãi (34.94%), Kon Tum (9.47%) và Quảng Trị (8.35%).
Sốt rét ác tính (SRAT):
Có 27 ca, tăng 22,73% với cùng kỳ, trong đó Ninh Thuận 10 ca,Gia Lai 5 ca, Đắc Lắc 5 ca, Kon Tum 3 ca, Quảng Bình, Phú Yên, Khánh Hòa và Đăk Nôngmỗi tỉnh 1 ca.
Tử vong sốt rét (TVSR):
3 ca (5 tháng cùng kỳ năm 2008 không có tử vong), tóm tắt sơ bộ các ca tử vong như sau:
- Ca Mau Nguyên, 32 tháng tuổi, trú tại xã Ma Nới, Ninh Sơn, Ninh Thuận. Sốt ở nhà 5 ngày, tử vong tại Bệnh viện tỉnh Ninh Thuận trước 24 giờ, xét nghiệm P.f (+), chẩn đoán SRAT đa phủ tạng. - Rơ Mah Hnao, nữ, 2 tuổi, cư trú tại xã Iale, Chư Sê, Gia Lai. Sốt ở nhà 2 ngày, tử vong tại Bệnh Viện tỉnh Gia Lai trước 24 giờ, xét nghiệm P.f ++++, nhập viện muộn, SRAT thể não. - Giàng A Khai, nam, 51 tuổi, cứ trú tại Đội 6-E720, Đắk Ngo, Tuy Đức, Đắc Nông. Sốt ở nhà 7 ngày, tử vong tại Bệnh viện đa khoa tỉnh, xét nghiệm P.f +, chẩn đoán SRAT đa phủ tạng. |
Đánh giá tình hình sốt rét gia tăng và các biện pháp giải quyết
-Theo số liệu thống kê của khu vực miền Trung-Tây Nguyên 5 tháng đầu năm và tháng 5/2009 số ca sốt rét gia tăng trên diện rộng cả về BNSR và KSTSR, đặc biệt là có 3 trường hợp tử vong so với cùng kỳ năm 2008; nhiều điểm số BNSR tăng trên 50% và số KSTSR tăng trên 80% tập trung ở những đối tượng di biến động (đi rừng, ngủ rẫy, di cư tự do, giao lưu biên giới hoặc làm ăn theo mùa vụ trong vùng sốt rét).
-Theo số liệu thu thập từ các điểm điều tra dịch tễ sốt rét tại các điểm định kỳ và đột xuất ở các vùng trọng điểm thấy BNSR và KSTSR đều gia tăng tương ứng với các chỉ số thống kê, mật độ vevtor truyền bệnh chính (An.minimus, An.dirus) tăng cao và có xu hướng phục hồi.
-Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã có Công văn số 179/VSR-DT ngày 12/6/2009 cảnh báo sốt rét gia tăng và chỉ đạo phòng chống sốt rét gửi các Sở Y tế, các Trung tâm PCSR/Trung tâm YTDP và các Bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc khu vực miền Trung-Tây Nguyên đồng thời cử nhiều đoàn giám sát, chỉ đạo của Viện phối hợp với các tỉnh tăng cường biện pháp khống chế sốt rét gia tăng, hạn chế sốt rét ác tính, tử vong sốt rét và ngăn chặn dịch sốt rét xảy ra.
Tình hình sán lá gan lớn (SLGL) và các bệnh ký sinh trùng khác
Bệnh Sán lá gan lớn
-Trong 5 tháng đầu năm 2009 tình hình bệnh sán lá gan lớn (SLGL) gia tăng đột biến ở một số tỉnh khu vực miền Trung-Tây Nguyên, số bệnh nhân SLGL được phát hiện và điều trị là 2.180 ca (Phòng Khám chuyên khoa của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn 1.163 ca, Bình Định 390 ca, Quảng Ngãi 200 ca, Gia Lai 82 ca, Quảng Nam 71 ca, Đà Nẵng 17 ca, Thừa Thiên-Huế 15 ca, Khánh Hòa 14 ca, Đăk Lăk và Quảng Trị 2 ca) tăng cao 70% so với các năm 2008, 2007 và thời điểm bùng phát SLGL năm 2006. Trong tháng 5/2009 số ca SLGL phát hiện và điều trị tại Phòng khám chuyên khoa của Viện là 367 ca so với tổng số 1.565 bệnh nhân được khám chiếm 23,45%. Số ca mắc mới SLGL phát hiện ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên chiếm khoảng 90% so với cả nước tập trung cao ở các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Gia Lai, Phú Yên, Khánh Hòa, Đà Nẵng và xuất hiện rải rác ở nhiều tỉnh khác trong khu vực.
  !important; |
bệnh nhân xếp hàng chờ lấy phiếu xét nghiệm |
-Nguyên nhân bệnh SLGL ngày càng gia tăng là do hiện nay không còn là bệnh ký sinh trùng hiếm gặp, người không còn là vật chủ tình cờ của sán lá gan lớn mà đã trở thành vật chủ thích nghi của sán lá gan lớn; tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn ở động vật ăn cỏ ở các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên rất cao (35-45%), sự đào thải trứng SLGL trước đây chủ yếu ở động vật ăn cỏ, nay cộng thêm trứng sán lá gan lớn ở người bài xuất ra đã làm cho điều kiện nhiễm bệnh ngày càng thuận lợi hơn; bên cạnh đó yếu tố nguy cơ nhiễm bệnh sán lá gan lớn do tập quán ăn rau sống dưới nước hoặc uống nước lã có ấu trùng sán của người dân làm cho tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn ở cộng đồng tăng cao.
-Khó khăn lớn nhất trong phòng chống bệnh SLGL hiện nay là hết thuốc đặc hiệu Triclabendazole (Egaten 250 mg) do phụ thuộc vào nguồn thuốc cung cấp không thường xuyên của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), không có nguồn kinh phí thực hiện truyền thông giáo dục, giải quyết môi trường và các hoạt động can thiệp khác tại cộng đồng các tỉnh có tỷ lệ nhiễm bệnh SLGL cao trong khu vực.
-Để giải quyết tình hình bệnh sán lá gan lớn ngày càng phát triển và gia tăng, Viện đã có Công văn số 173/VSR-KST ngày 10/6/2009 báo cáo Bộ Y tế và cơ quan hữu quan cho phép được chủ động được mua thuốc Egaten để cung cấp cho các tỉnh trong khu vực, đầu tư nguồn kinh phí thực hiện các biện pháp can thiệp tại cộng đồng và xây dựng chương trình/dự án phòng chống bệnh sán lá gan lớn ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Các bệnh ký sinh trùng khác
-Ngoài bệnh SLGL Viện còn phát hiện nhiều bệnh ký sinh trùng khác như sán lá gan nhỏ, sán máng, giun lươn, giun đũa chó, các bệnh giun truyền qua đất (giun đũa, giun móc, giun tóc, giun móc/mỏ) và các bệnh do nấm ký sinh…
-Việc đầu tư phòng chống các bệnh ký sinh trùng từ trước đến nay chủ yếu dựa vào nguồn kinh phí thường xuyên của Viện, chưa có quy mô phòng chống trên diện rộng nên các hoạt động chủ yếu là điều tra đánh giá tỷ lệ nhiễm bệnh, hướng dẫn các địa phương biện pháp phòng chống và cung cấp nhỏ lẻ một số trang thiết bị xét nghiệm cho các tỉnh trong khu vực.
Các hoạt động chính của Viện trong tháng 5 năm 2009
Hoạt động chỉ đạo tuyến
Chỉ đạo phòng chống sốt rét và các bệnh giun sán:
-Chỉ đạo các tỉnh có sốt rét gia tăng tăng cường các biện pháp phòng chống sốt rét bổ sung như phun tồn lưu hóa chất, tẩm màn, cấp thuốc tự điều trị cho các nhóm dân di biến động dài ngày xa cơ sở y tế; hỗ trợ địa phương giám sát các vùng trọng điểm sốt rét, có nguy cơ nhiễm bệnh cao và khó khăn về quản lý, tổ chức thực hiện nhằm khống chế kịp thời sự gia tăng sốt rét và ngăn chặn dịch xảy ra trên địa bàn.
-Cửcác đoàn giám sát dịch tễ, điều trị sốt rét, côn trùng tại các tỉnh có sốt rét gia tăng như Gia Lai, Kon Tum, Đak Lak, Đak Nông, Bình Định, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận…
-Hỗ trợ thuốc Egaten 250 mg và hướng dẫn các tỉnh có tỷ lệ nhiễm bệnh sán lá gan lớn cao trong khu vực tăng cường phát hiện và điều trị ngay từ cơ sở nhằm hạn chế áp lực bệnh nhân, đồng thời yêu cầu các tỉnh gửi báo cáo số liệu thống kê tình hình bệnh SLGL để Viện kịp thời báo cáo Bộ Y tế. Tổ chức điều tra, giám sát các bệnh ký sinh trùng khác và chỉ đạo một số biện pháp phòng chống tại các điểm có tỷ lệ nhiễm bệnh ký sinh trùng cao đã phát hiện; xây dựng đề án phòng chống các bệnh ký sinh trùng trong 5 năm (2010-2015) đề nghị Bộ Y tế và WHO hỗ trợ kinh phí thực hiện.
-Họp Ban điều hành Dự án phòng chống sốt xuất huyết Tây Nguyên do Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên chủ trì tại tỉnh Đắc Lắc và Hội nghị triển khai kế hoạch phòng chống sốt xuất huyết năm 2009 do Cục Y tế dự phòng & Môi trường-Bộ Y tế tổ chức tại thành phố Nha Trang. Lập kế hoạch triển khai thực hiện dự án phòng chống sốt xuất huyết theo hướng dẫn của Cục Y tế dự phòng & Môi trường-Bộ Y tế năm 2009.
Hợp tác Quốc tế
-Hợp tác nghiên cứu về sốt rét thực địa trong năm 2009 với Ủy ban Y tế Hà Lan-Việt Nam (MCNV) tại Khánh Phú (Khánh Hòa) và Viện Sốt rét Quân đội Australia tại Phước Chiến (Ninh Thuận).
-Hợp tác với Tổ chức Y tế thế giới nghiên cứu đánh giá ký sinh trùng và hiệu lực thuốc sốt rét phối hợp có gốc Artermisinine (ACT) tại Gia Lai và Ninh Thuận.
Hoạt động Nghiên cứu khoa học, đào tạo và công nghệ thông tin
-Tiếp tục triển khai các đề tài nghiên cứu: 3 đề tài cấp Bộ, 1 đề tài cấp tỉnh, 2 đề tài hợp tác quốc tế và 12 đề tài cấp cơ sở trong năm 2009; tổ chức 1 buổi sinh hoạt khoa học chuyên đề về côn trùng học và sinh học phân tử cho đội ngũ cán bộ khoa học của Viện và học sinh đang được đào tạo tại Viện.
-Đào tạo 02 lớp kỹ thuật viên xét nghiệm trung cấp (KTV) hệ chính quiK30, K31. Tổ chứckhoá 30 đi thực tế tốt nghiệp tại tỉnh Quảng Trị, Quảng Ngãi và thực hành tạibệnh viện huyện Tây Sơn, Phù Mỹ - Bình Định; chuẩn bị xét tuyển sinhkhoá 32 và thi tốt nghiệp cho khóa 30 vào tháng 7/2009
-Phối hợp Trường đại học Tây Nguyên, Trường Đại học Quy Nhơn giảng dạy, hướng dẫn làm luận án Thạc sĩ chuyên ngành Ký sinh trùng và tham gia Hội đồng chấm luận án Thạc sỹ các chuyên ngành khác; tổ chức giảng dạy thực hành Ký sinh trùng cho học viên cao học Trường Đại học Tây Nguyên khóa 2.
-Tổ chức Hội thảo đánh giá hoạt động lồng ghép phòng chống sốt rét và sốt xuất huyết tại huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định năm 2008 và kế hoạch triển khai năm 2009.
-Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin y tế trong đơn vị; duy trì có hiệu quả trang tin điện tử (Website) tiếng Việt và tiếng Anh với gần 3.000.000 lượt người truye cập. Xây dựng hộp thư điện tử nội bộ và mạng LAN kết nối đến các khoa phòng nhằm giải thiểu các thủ tục hành chính, nâng cấp và triển khai phần mềm quản lý sốt rét (MMS) và phần mềm khám chữa bệnh.
Công tác hậu cần
-Sơ kết 2 năm học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, báo cáo Dân chính đảng tỉnh Bình Định và Bộ Y tế kết quả thực hiện cuộc vận động, phát động thi đua giai đoạn 2009-2011.
-Tổng kết giao lưu Thể thao-Văn nghệ vì Sự nghiệp nghiên cứu khoa học giữa các Viện, Bệnh viện khu vực miền Trung-Tây Nguyên lần thức VI do Viện Pasteur-Vaccin Đà Lạt tổ chức tại TP. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
-Làm việc với Sở Tài chính và trình UBND tỉnh Bình Định phê duyệt phương án tổng thể đền bù giải tỏa đất xây dựng cơ sở Viện mới; làm việc với Bộ Y tế về dự án nâng cấp sửa chữa kho 19, nhà ở học sinh, mua sắm trang thiết bị; tổ chức nghiệm thu Công trình phòng chống mối mọt tại Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên.
-Tăng cường đội ngũ cán bộ kỹ thuật cao và điều chỉnh, sắp xếp lại các labo nghiên cứu phù hợp với nhu cầu phát triển của Viện.
Trọng tâm công tác tháng6/2009
Hoạt động chuyên môn
-Tăng cường giám sát dịch tễ các xã/huyện/tỉnh có tình hình sốt rét gia tăng, chỉ đạo địa phương triển khai các biện pháp phòng chống tích cực và kịp thời nhằm không chế nguy cơ sốt rét gia tăng trên toàn khu vực.
  !important; |
những đọan đường mà các cán bộ nghiên cứu sốt rét đi qua (ảnh: Thanh Tuấn) |
-Tham dự Hội nghị tổng kết Dự án QTC PCSR vòng 3 (2005-2008) và triển khai kế hoạch 2009 tại thành phố Huế; Hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia phòng chống sốt rét tại Hà Nội.
-Tổ chức tập huấn hoạt động lồng ghép phòng chống sốt rét và sốt xuất huyết tại huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định.
-Làm việc với Lãnh đạo Bộ Y tế và các Cục/Vụ chức năng thuộc Bộ Y tế về các giải pháp chiến lược phòng chống bệnh sán lá gan lớn và các bệnh ký sinh trùng ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Hoạt động hợp tác quốc tế, nghiên cứu khoa học và đào tạo
-Tiếp tục hợp tác nghiên cứu với các đối tác tại thực địa, các đề tài cấp Bộ và cấp cơ sở năm 2009; tìm kiếm sự hỗ trợ đầu tư của Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam và Tây Thái Bình Dương (Manila) về phòng chống sán lá gan lớn ở một số tỉnh có tỷ lệ bệnh cao trong khu vực.
-Hướng dẫn và chấm luận án đại học, cao học Trường ĐH Tây Nguyên và tổ chức sinh hoạt khoa học Quý II/2009.
-Triển khai hoạt động Dự án Quốc gia PCSR và Dự án Qũy toàn cầu PCSR về giám sát dịch tễ sốt rét các vùng sốt rét trọng điểm thuộc các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế và Quảng Nam; điều tra, giám sát thực địa về côn trùng sốt rét (sentinel) tại Vân canh; tập huấn phương pháp điều hành phòng chống sốt rét dựa vào cộng đồng (CBM) tại huyện A Lưới và Nam Đông tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Hậu cần
-Tổ chức thực hiện các bước xét chọn Thầy thuốc nhân dân, Thầy thuốc ưu tú năm 2009 theo quy định của Bộ Y tế.
-Bảo vệ Dự án kho hóa chất, vật tư (Kho 19), nhà ở nội trú, tranh thiết bị và trình Bộ Y tế phương án chi tiết đền bù, giải phóng mặt bằng xây dựng cơ sở Viện mới.
-Mở xét thầu gói thầu tư vấn thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, thiết kế bản vẽ thi công xây dựng Viện mới.