I. Đặc điểm hoạt động của Viện và nhu cầu ứng dụng Công nghệ thông tin:
Viện Sốt rét-KST-CT Quy nhơn là đơn vị Trung ương thuộc Bộ Y tế phụ trách 15 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên (từ Quảng Bình đến Bình Thuận) và 4 tỉnh Tây Nguyên (Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lăk và Đăk Nông) gồm 140 huyện thị, 1930 xã/phường, dân số 14.309.407 người với 40 dân tộc khác nhau và diện tích 100.566 km2. Đây là vùng có địa hình phức tạp, dân trí thấp, nhiều phong tục tập quán lạc hậu và tỷ lệ hộ đói nghèo cao, nắng hạn và lũ lụt kéo dài; đặc điểm tình hình bệnh sốt rét cũng như các bệnh ký sinh trùng và côn trùng truyền bệnh nặng hơn so với các khu vực khác trên cả nước: 92% số huyện và 57% dân số sống trong vùng sốt rét lưu hành, 70-80% dân nhiễm bệnh giun sán… thường xuyên ảnh hưởng đến sức khỏe và đe dọa tính mạng của cộng đồng. Từ năm 2001-2005, mặc dù tình hình sốt rét trong cả nước có xu hướng giảm thấp, nhưng gánh nặng sốt rét hầu như vẫn tập trung ở các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên với tỷ lệ mắc bệnh 42%, nhiễm ký sinh trùng sốt rét 72-81%, sốt rét ác tính 75-83% và tử vong sốt rét 72-86% so với toàn quốc; đặc biệt là sự gia tăng của bệnh sán lá gan lớn tại một số tỉnh miền Trung trong thời gian gần đây cũng là những thách thức không nhỏ trong công tác thống kê, phân tích số liệu dự báo nguy cơ xảy ra dịch và quản lý tốt nguồn bệnh tại khu vực.
Trước thực trạng tình hình sốt rét và các bệnh ký sinh trùng tại khu vực, thực hiện Quyểt định của Thủ tướng chính phủ số 112/2001/QĐ-TTg ngày 25/7/2001 phê duyệt đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005; Quyết định của Bộ Y tế số 714/QĐ-BYT ngày 4/3/2003 phê duyệt dự án CNTT,Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn đã triển khai dự án “Phát triển và ứng dụng Công nghệ thông tin tại Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn” từ năm 2003 với mục tiêu triển khai các hoạt động CNTT và ứng dụng có hiệu quả các hoạt động của viện nhằm nâng cao chất lượng trong công tác phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng cho cộng đồng; xây dựng mạng quản lý và mạng thông tin trong nội bộ để phục vụ cho hoạt động của viện, mở rộng mạng giúp cho công tác chỉ đạo và quản lý hoạt động mạng lưới thuộc 15 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên và tiến tới hòa mạng toàn ngành.
II. Kết quả ứng dụng CNTT: |
| Ban kỹ thuật tác nghiệp tại phòng máy chủ |
Với kinh phí hạn hẹp lấy từ nguồn vốn sự nghiệp, hàng năm Bộ Y tế đầu tư cho Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn khoảng 500 triệu đồng, bao gồm mua sắm trang thiết bị và triển khai các phần mềm ứng dụng, Viện đã xây dựng và triển khai như sau:
1.Về tổ chức bộ máy và nhân lực:
Tổ chức hoạt động: ứng dụng công nghệ thông tin tại Viện được giao cho Phòng Quản lý khoa học & Công nghệ thông tin chịu trách nhiệm triển khai thực hiện.
Nhân lực: có một Trưởng phòng và hai cán bộ đại học đã được đào tạo cơ bản và có kinh nghiệm trong triển khai ứng dụng CNTT.
Thành lập Ban quản lý dự án CNTTvà Ban biên tập:
Ban Quản lý Dự án gồm 7 người đại diện cho các khoa chuyên môn và các phòng chức năng của Viện do Viện trưởng làm Trưởng Ban.
Ban Biên tập Website gồm 15 người đại diện cho các khoa, phòng được phân công trách nhiệm biên tập các chuyên mục đã được thiết kế trong sơ đồ site do Viện trưởng làm Trưởng Ban.
Ban biên dịch gồm 5 người chịu trách nhiệm dịch bài từ tiếng Việt sang tiến Anh do Trưởng Phòng Kế hoạch-Tổng hợp làm Trưởng ban.
Ban kỹ thuật gồm 3 người chịu trách nhiệm về hình thức trình bày trang Web và chuyển tải bài lên mạng do Trưởng phòng Quản lý Khoa học và Công nghệ thông tin làm Trưởng ban.
2.Về cơ sở hạ tầng:
- Trang bị 2 máy chủ, 50 máy trạm.
- Lắp đặt mạng LAN đến tất cả các khoa, phòng.
- Lắp đặt đường truyền internet tốc độ cao ADSL.
- Lắp đặt 1 phòng máy vi tính với 20 máy phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và truy cập internet.
3. Về xây dựng phần mềm ứng dụng:
a. Xây dựng Trang thông tin điện tử (Website): impe-qn.org.vn
Ứng dụng công nghệ portal tiên tiến, thuận tiện trong việc cập nhật bài viết và việc bảo trì, bao gồm các chuyên mục chuyên ngành, các trang thông tin của các tỉnh trong khu vực, thể hiện bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh. Thời gian qua đã phục vụ tốt công tác trao đổi thông tin, chỉ đạo phòng chống sốt rét và các bệnh do côn trùng, ký sinh trùng truyền. Chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2005 đến nay trang thông tin điện tử của Viện đã có trên 400 bài viết, với trên 84.000 lượt người truy cập. Các tin bài được cập nhật liên tục tập trung chủ yếu các chuyên đề về sốt rét, ký sinh trùng sốt rét, ký sinh trùng đường ruột, côn trùng. Những thông tin đăng tải trên Website của Viện đã phản ánh kịp thời những vấn đề nóng bỏng về diễn biến tình hình dịch bệnh và các hoạt động thường xuyên của Viện, các công trình nghiên cứu khoa học, những tin tức sự kiện mới nhất về lĩnh vực chuyên ngành cũng như y tế chung ở trong nước và trên thế giới, các thông tin về đào tạo Kỹ thuật viên trung cấp tại Viện, các hoạt động hợp tác quốc tế, các chỉ số thống kê cơ bản về diễn biến bệnh sốt rét và ký sinh trùng trong khu vực, chiến lược và chính sách y tế, công tác quản lý và các lĩnh vực khác có liên quan đáp ứng nhu cầu thông tin của đông đảo bạn đọc. Đây cũng là kênh truyền thông giáo dục-xã hội hóa công tác phòng chống sốt rét, các bệnh ký sinh trùng đặc biệt là bệnh sán lá gan lớn cho nhân dân. Ngoài ra trang tin điện tử còn cung cấp trên mạng các hoạt động dịch vụ khám chữa bệnh, dịch vụ diệt mối mọt và phòng chống vectơ, dịch vụ khoa học kỹ thuật; chuyên mục hỏi đáp, đáp ứng nhanh các yêu cầu về thông tin mà bạn đọc quan tâm.  |
| Một góc hệ thống máy chủ tại Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn |
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được Trang tin điện tử của Viện vẫn còn một số mặt hạn chế như thông tin cập nhật đôi khi còn chậm, phần tin của các Trung tâm Phòng chống sốt rét/Trung tâm Y tế dự phòng các tỉnh trong địa bàn khu vực miền Trung- Tây Nguyên còn nghèo nàn và chưa được cập nhật thường xuyên. Việc chi trả thù lao viết bài chưa có quy định cụ thể, nên việc thực hiện còn nhiều lúng túng.
b.Xây dựng phần mềm quản lý sốt rét:
Để phục vụ tốt công tác quản lý bệnh sốt rét, dự báo dịch sốt rét, giảm tỷ lệ mắc và tử vong do sốt rét khu vực miền Trung-Tây Nguyên. Sau nhiều năm khảo sát; Viện đã mạnh dạn phát triển phần mềm quản lý sốt rét (MMS), cơ sở dữ liệu là SQL server 2000 chạy trên nền Windows, có tính năng bảo mật cao, dễ dàng trong việc nâng cấp. Ngoài việc quản lý số liệu sốt rét nó còn tích hợp các báo cáo về bản đồ (dựa trên hệ thống định vị toàn cầu GIS), dự báo dịch sốt rét, thống kê và phân tích xử lý số liệu trong nghiên cứu, điều tra dịch tễ sốt rét, cập nhật trực tiếp số liệu từ các tỉnh trong khu vực thông qua đường truyền internet; bản biểu đồ đánh giá sự phân bố về hành chính nhân sự, phân vùng dịch tễ sốt rét, các Phiếu theo dõi sốt rét ác tính và tử vong sốt rét…
Việc sử dụng các phương pháp thống kê, các phần mềm xử lý toán học giúp cho các nhà khoa học trong quá trình xử lý, phân tích số liệu nghiên cứu và dự báo tình hình sốt rét tại địa phương, nhất là các vùng sốt rét trọng điểm. Được sự tài trợ của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), cuối năm 2005 Viện đã tổ chức Khóa đào tạo “Ứng dụng dịch tễ học và Thống kê y học trong nghiên cứu khoa học” cho 27 học viên là cán bộ đại học, sau đại học làm công tác thống kê dịch tễ sốt rét tuyến tỉnh và tuyến Viện đã được đào tạo cơ bản từ các khóa trước đây thuộc khu vực miền Trung-Tây Nguyên về các kỹ năng thiết kế các loại hình nghiên cứu khoa học, ứng dụng một số phần mềm STATA, ACCVIEW, MMS và xây dựng 4 đề cương nhóm để học viên thực hành ứng dụng khi trở về cơ sở.
Từ năm 2003 đến 2005 đã được Bộ Y tế hỗ trợ kinh phí đào tạo 3 lớp Tin học nâng cao cho 70 học viên tại Viện, hiện nay 70% cán bộ viên chức cơ quan đã sử dụng thông thạo phần mềm máy tính và CNTT chuyên ngành.
Tuy nhiên phần mềm quản lý sốt rét (MMS) vẫn còn một số lỗi hệ thống, vấn đề ứng dụng kết nối mạng với các tỉnh còn nhiều khó khăn do hệ thống máy tính không đồng bộ, chưa có đường truyền tốc độ cao, thời gian thực hành ứng dụng phần mềm quá ngắn do nguồn kinh phí đào tạo hạn hẹp…
Xây dựng phần mềm quản lý phòng khám bệnh chuyên khoa: phục vụ công tác quản lý bệnh nhân, trả lời kết quả xét nghiệm và thu viện phí tại phòng khám.
Xây dựng hộp thư điện tử nội bộ: nâng cao chất lượng việc trao đổi thông tin giữa các Khoa, Phòng trong Viện; giúp Ban Lãnh đạo Viện chỉ đạo và thông báo kế hoạch hoạt động hàng tháng, hàng tuần, đồng thời tiếp cận nhanh các thông tin quản lý.
Hướng phát triển CNTT trong thời gian tới: Viện tập trung hoàn chỉnh phần mềm quản lý sốt rét và xây dựng phần mềm quản lý các bệnh về giun sán, quản lý thư viện, xây dựng thư viện điện tử, phần mềm quản lý công văn…
III. Kết luận và đề nghị:
Việc ứng dụng CNTT trong quản lý ngày càng cho thấy những lợi ích to lớn không ai có thể phủ nhận được.
Nhà nước cần đẩy mạnh phát triển các phần mềm trên mã nguồn mở. Hiện nay hầu hết các phần mềm đều viết trên hệ điều hành Windows, nếu sử dụng Linux hay các hệ điều hành mã nguồn mở khác không áp dụng được.
Các ngành nên thống nhất trong việc phát triển phần mềm, tránh tình trạng manh mún như hiện nay, cần đầu tư xây dựng các trung tâm công nghệ cao.
Nhà nước sớm có chế độ, phụ cấp độc hại về mắt và chi trả thù lao viết bài trên website… hiện nay việc áp dụng các nguồn kinh phí phát triển và duy trì hoạt động CNTT còn rất lúng túng.
Tập huấn cho cán bộ quản lý mạng nhằm sử dụng và quản lý các phần mềm tài chính, nhân sự…
Cần có Dự án đầu tư thí điểm ứng dụng Công nghệ thông tin quản lý dịch bệnh ở khu vực có tình hình sốt rét và các bệnh ký sinh trùng nặng và phức tạp như khu vực miền Trung-Tây Nguyên.