Cập nhật tháng 7/2014. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) - Viêm gan E là bệnh gan do vi rút viêm gan E: một virus acid ribonucleic dải đơn (RNA) nhạy dương tính, không vỏ.Virus viêm gan E lây truyền chủ yếu qua nước uống bị ô nhiễm,nó thường là một bệnh tự giới hạn và biến mất trong vòng 4-6 tuần. Thỉnh thoảng, một thểkịch phát của viêm gan phát triển (suy gan cấp tính), có thể dẫn đến tử vong. Trên toàn cầu, có khoảng 20 triệu ca nhiễm viêm gan E mỗi năm.
Sự phân bố về mặt địa lý (Geographical distribution)
Dịchbệnh và các ca viêm gan E rải rác xảy ra trên thế giới,các vụ dịch này thường xuyên xảy ra ở các nước có nguồn lực hạn chế, ít tiếp cận với các dịch vụ y tế và vệ sinh môi trường, nước sạch và có thể ảnh hưởng đến một vài trăm đến vài ngàn người. Trong những năm gần đây, một số các vụ dịch đã xảy ra ở khu vực xung đột và có tình trạng khẩn cấp nhân đạo, chẳng hạn như khu vực chiến tranh, và trong các trại cho người tị nạn hoặc dân di tản (internally displaced populations_IDP). Ước tính có khoảng 20 triệu ca nhiễm và 3,3 triệu trường hợp cấp tính xảy ra hàng năm trên toàn thế giới với ước tính khoảng 56.600 người tử vong.
Viêm gan E được tìm thấy trên toàn thế giới và kiểu gen khác nhau của vi rút viêm gan E xác định sự khác biệt về dịch tễ học như kiểu gen 1 (genotype 1) là thường thấy ở các nước đang phát triển và gây ra bùng phát dịch ở cấp cộng đồng trong khi kiểu gen 3 thường thấy ở các nước phát triển và không gây ra sự bùng phát dịch bệnh. Tỷ lệ huyết thanh cao nhất (số người trong một quần thể có xét nghiệm dân số dương tính với căn bệnh này) được quan sát trong nhiều khu vực, nơi các tiêu chuẩn vệ sinh môi trường thấp làm tăng nguy cơ lây truyền của virus. Trên 60% các ca nhiễm bệnh viêm gan E và 65% của tất cả các trường hợp tử vong do viêm gan E xảy ra ở Đông và Nam Á, nơi có tỷ lệ huyết thanh 25% là phổ biến trong một số nhóm tuổi. Tại Ai Cập, một nửa dân số trong độ tuổi trên 5 có huyết thanh dương tính với virus viêm gan E.
Sự lan truyền (Transmission)
Virus viêm gan E lây truyền chủ yếu qua đường phân-miệng do nước uống bị nhiễm phân, các đường lây truyền khác đã được xác định như lây truyền qua thực phẩm do tiêu thụ các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật bị nhiễm bệnh (foodborne transmission from ingestion of products derived from infected animals); truyền các sản phẩm máu bị nhiễm bệnh (transfusion of infected blood products); lây truyền dọc từ một người phụ nữ mang thai đến thai nhi (vertical transmission from a pregnant woman to her fetus). Mặc dù con người được coi là vật chủ tự nhiên của virus viêm gan E nhưng các kháng thể kháng với virus viêm gan E hoặc các virus liên quan gần gũi đã được phát hiện trong các loài linh trưởng và một số loài động vật khác. Viêm gan E là một bệnh lây truyền qua đường nước và nguồn cung cấp nước hoặc thực phẩm bị ô nhiễm có liên quan đến các vụ dịch lớn. Tiêu thụ của động vật có vỏ còn sống hoặc chưa nấu chín cũng đã được xác định là nguồn gốc của các trường hợp lẻ tẻ trong các vùng lưu hành. Các yếu tố nguy cơ nhiễm viêm gan E có liên quan đến tình trạng vệ sinh kém trong các khu vực rộng lớn của thế giới và để virus viêm gan E rơi trong phân.
Các triệu chứng (Symptoms)
Thời gian ủ bệnh(incubation period) sau khi tiếp xúc với virus viêm gan E khoảng 3-8 tuần,trung bình là 40 ngày,thời gian lây nhiễm là không rõ. Virus viêm gan E gây ra dịch viêm gan siêu vi cấp tính và các ca bệnh rải rác, nhiễm trùng có triệu chứng thường gặp nhất ở người lớn trẻ độ tuổi từ 15-40. Mặc dù việc lây nhiễm thường xuyên xảy ra ở trẻ em nhưng bệnh chủ yếu là không có triệu chứng hoặc gây ra một căn bệnh rất nhẹ mà không có vàng da (anicteric) và không được chẩn đoán (undiagnosed).
Các dấu hiệu và triệu chứng của viêm gan điển hình bao gồm vàng da (jaundice),đổi màu vàng của da và màng cứng của mắt, nước tiểu sẫm màu và phân nhạt màu (yellow discolouration of the skin and sclera of the eyes, dark urine and pale stools); chán ăn và mất cảm giác ngon miệng (anorexia and loss of appetite); gan mềm và lớn (an enlarged, tender liver)/gan lớn (hepatomegaly); bụng mềm và đau (abdominal pain and tenderness); buồn nôn và nôn (nausea and vomiting); sốt (fever). Những triệu chứng này phần lớn là không thể phân biệt với những người đã trải qua bất kỳ giai đoạn cấp tính nào của bệnh gan và thường kéo dài từ một đến hai tuần.
Trong trường hợp hiếm hoi, bệnh viêm gan E cấp tính có thể dẫn đến viêm gan tối cấp (suy gan cấp tính) và tử vong. Viêm gan tối cấp xảy ra thường xuyên hơn trong thời gian mang thai. Phụ nữ mang thai có nguy cơ lớn hơn với các biến chứng sản khoa và tử vong do bệnh viêm gan E, điều này có thể gây ra tỷ lệ tử vong đến 20% ở những phụ nữ mang thai trong thai kỳ thứ ba. Các ca nhiễm viêm gan E mãn tính đã được báo cáo ở những người suy giảm miễn dịch, sự tái nhiễm viêm gan E cũng đã được báo cáo ở những người suy giảm miễn dịch.
Chẩn đoán (Diagnosis)
Ca bệnh do viêm gan E là không thể phân biệt lâm sàng với các loại viêm gan siêu vi cấp tínhkhácdo đó chẩn đoán nhiễm viêm gan E là thường dựa trên việc phát hiện các kháng thể IgM và IgG đặc hiệu với virus ở trong máu. Các xét nghiệm bổ sung bao gồm phản ứng chuỗi polymerase sao chép ngược (reverse transcriptase polymerase chain reaction-RT-PCR) nhằm phát hiện RNA virus viêm gan E trong máu và/hoặc trong phân nhưng xét nghiệm này có thể đòi hỏi ở các cơ sở phòng xét nghiệm chuyên ngành. Viêm gan E nên được nghi ngờ trong các vụ dịch viêm gan lây truyền qua đường nước xảy ra ở các nước đang phát triển, đặc biệt là nếu bệnh nặng hơn ở phụ nữ mang thai, hoặc nếu viêm gan A đã được loại trừ.
Điều trị (Treatment)
Không có thuốc điều trị sẵn có khả năng làm thay đổi quá trình viêm gan cấp tính, phòng ngừa là phương pháp hiệu quả nhất chống lại căn bệnh này bởi vì viêm gan E là thường tự giới hạn, nhập viện thường không cần thiết. Tuy nhiên, nhập viện là cần thiết cho người bị viêm gan tối cấp và cũng cần được cân nhắc ở phụ nữ mang thai có triệu chứng.
Phòng chống (Prevention)
Nguy cơ lây nhiễm và lan truyền có thể được giảm: duy trì tiêu chuẩn chất lượng với nguồn cung cấp nước công cộng; xây dựng hệ thống xử lý chất thải thích hợp để loại bỏ chất thải vệ sinh.Trên một góc độ cá nhân, nguy cơ lây nhiễm có thể được giảm: duy trì thói quen vệ sinh như rửa tay với nước sạch, đặc biệt là trước khi chế biến thức ăn; tránh uống nước và/hoặckem mà chưa biết được độ tinh khiết; tuân thủ hướng dẫn thực hành an toàn thực phẩm của WHO. Vào năm 2011, vaccine đầu tiên để phòng ngừa nhiễm bệnh viêm gan E đã được đăng ký ở Trung Quốc, mặc dù nó không phải là có sẵn trên toàn cầu nhưng có khả năng có thể trở thành có sẵn trong một số quốc gia khác.
Các hướng dẫn về các biện pháp trong vụ dịch(Guidelines for epidemic measures)
Trongvụ dịch, WHO khuyến cáo xác định phương thức lây truyền (determining the mode of transmission);xác địnhquần thể đặc biệtbị phơi nhiễm làm gia tăng nguy cơ lây nhiễm (identifying the population specifically exposed to increased risk of infection); loại bỏ một nguồn lây nhiễm phổ biến (eliminating a common source of infection);cải thiện thực hành vệ sinh môi trường để loại bỏsự ô nhiễm nước và thực phẩm bởi phân (improving sanitary and hygienic practices to eliminate faecal contamination of food and water).
Đáp ứng của Tổ chức y tế thế giới (WHO response)
Nhóm các chuyên gia tư vấn chiến lược của WHO (Strategic Advisory Group of Experts_SAGE) về tiêm chủng thành lập một nhóm công tác về viêm gan E vào năm 2013 để báo cáo về một số vấn đề bao gồm bằng chứng hiện có về gánh nặng của bệnh viêm gan E và về sự an toàn, miễn dịch, hiệu quả và hiệu quả chi phí của vaccine viêm gan E được cấp phép. SAGE sẽ triệu tập vào tháng 10 năm 2014 và đánh giá báo cáo của các nhóm nghiên cứu nhằm kiến nghị với Tổng giám đốc. Nhóm công tác viêm gan E trong mạng lưới viêm gan toàn cầu (The Global Hepatitis Network Hepatitis E Working Group) đã làm việc với một nhóm các quốc gia thành viên để tạo ra một số tay hướng dẫn ứng phó với dịch bệnh viêm gan E, việc phát hành cuốn sách này được dự kiến trong nửa kỳ thứ hai của năm 2014.
Ngoài những điểm nêu trên, WHO đang làm việc trong các lĩnh vực sau đây để phòng ngừa và kiểm soát bệnh viêm gan siêu vi nhằmnâng cao nhận thức, thúc đẩy quan hệ đối tác và huy động nguồn lực (raising awareness, promoting partnerships and mobilizing resources); xây dựng chính sách và các dữ liệu dựa trên bằng chứng cho hành động (formulating evidence-based policy and data for action); dự phòng lây truyền (preventing transmission); thực hiện sàng lọc, chăm sóc và điều trị (executing screening, care and treatment). WHO cũng tổ chức Ngày Viêm gan thế giới (World Hepatitis Day) vào ngày 28 tháng 7 hàng năm để nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về viêm gan siêu vi.