Ngoài chiến tranh khủng bố bằng vũ khí hóa học đã được đề cập nhiều đến trong thời gian qua tại Syria. Thực tế lịch sử trước đây ở một số nơi còn cho thấy loại vũ khí sinh học cũng được thường đối phương sử dụng bằng cách dùng động vật chân đốt như là một vật mang, vận chuyển hay truyền các tác nhân sinh học gây ra những vụ dịch lớn nhằm tiêu diệt sinh lực của kẻ thù. Cần biết đặc điểm của loại vũ khí sinh học này để chủ động phòng ngừa.
Đặc điểm động vật chân đốt dùng làm vũ khí sinh học
Ngành động vật chân đốt được chia thành 4 ngành phụ, trong đó có nhiều lớp nhưng lớp côn trùng (inserta) và lớp nhện (arachnida) có vai trò quan trọng trong truyền những tác nhân sinh học. Động vật chân đốt vừa có khả năng gây bệnh, vừa có khả năng vận chuyển và truyền mầm bệnh gọi là tác nhân sinh học cho con người. Khả năng gây bệnh của động vật chân đốt được thể hiện khi chúng hút máu và truyền độc tố gây đau, dị ứng, mẩn ngứa qua vết loét như do mò đốt hoặc có thể gây choáng, tê liệt nhiễm độc và chết như do nọc độc của bọ cạp, rết độc khi đốt. Trên thực tế ghi nhận khả năng gây bệnh của động vật chân đốt cho con người rất hạn chế nhưng khả năng vận chuyển và truyền tác nhân sinh học cho con người thì vô cùng to lớn và nguy hiểm. Một số loài động vật chân đốt chỉ nhiễm mầm bệnh một lần nhưng chúng có khả năng truyền mầm bệnh qua nhiều thế hệ sau. Các nhà khoa học cũng có thể tạo ra các loài động vật chân đốt lạ có khả năng vận chuyển và truyền các tác nhân sinh học đã được gây biến đổi gen, kháng thuốc và rất nguy hiểm. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng còn tạo ra được các loài động vật chân đốt có khả năng chịu đựng, dung nạp và kháng lại với các hóa chất diệt côn trùng. Trong chiến tranh khủng bố sinh học, kẻ địch có thể dùng động vật chân đốt như là một vật mang, vận chuyển hay truyền những tác nhân sinh học gây ra những vụ dịch bệnh lớn nhằm tiêu diệt sinh lực của đối phương.
Các động vật chân đốt dùng làm vũ khí sinh học
Động vật chân đốt có thể vận chuyển và truyền rất nhiều loại mầm bệnh gọi là tác nhân sinh học cho con người và các động vật như ký sinh trùng, vi khuẩn, virus, rickettsia... Mầm bệnh ký sinh trùng thường được sử dụng là dùng loài ruồi Glossina truyền trùng roi Trypanosoma gây bệnh Chagas, dùng loài muỗi cát Phlebotomus truyền bệnh Leishmania gây bệnh sốt đen Kala-aza... Mầm bệnh vi khuẩn thường được sử dụng là dùng loài ruồi nhà, nhặng, gián để truyền bệnh tả, lỵ, thương hàn, lao; dùng loài bọ chét để truyền bệnh dịch hạch. Mầm bệnh virus thường được sử dụng là dùng loài muỗi để truyền bệnh sốt xuất huyết, sốt dengue, viêm não Nhật Bản B; dùng loài ve để truyền bệnh viêm não do ve, bệnh sốt Colorado... Mầm bệnh rickettsia thường được sử dụng là dùng loài mò để truyền bệnh sốt mò; dùng loài ve để truyền bệnh sốt Q; dùng loài chấy, rận để truyền bệnh sốt phát ban...
Chính các loài động vật chân đốt có khả năng truyền được nhiều loại mầm bệnh nguy hiểm đã nêu ở trên nên chúng có vai trò quan trọng trong việc sử dụng để gây nên chiến tranh khủng bố sinh học. Trên thực tiễn cho thấy kẻ thù đã sử dụng nhiều loài động vật chân đốt mang những mầm bệnh nguy hiểm để tấn công đối phương, làm suy giảm sinh lực và khả năng chiến đấu của lực lượng đối kháng.
Tạo chiến tranh khủng bố sinh học bằng bọ chét gây bệnh dịch hạch
Trong lịch sử nhân loại, chiến tranh khủng bố sinh học đã được một số các quốc gia thực hiện bằng cách sử dụng tác nhân gây hại sinh học với vai trò truyền bệnh của loại bọ chét mang mầm bệnh dịch hạch Yersinia pestis nhằm tiêu diệt sinh lực và sức chiến đấu của đối phương để tạo nên chiến thắng thể hiện bằng các dẫn chứng sau đây: Thời kỳ năm 1346 - 1347, quân đội Tartar đã phản công thủy quân Thiên Chúa Giáo bằng cách sử dụng súng phóng đá để bắn xác của những người Tartar chết vì bệnh dịch hạch vào quân Genoe. Dịch hạch bùng phát và quân đội Genoe đã phải rút quân về. Vào năm 1798, các hoạt động quân sự của Pháp tại Ai Cập đã gặp phải những trở ngại lớn vì bệnh dịch hạch và đã hủy bỏ cuộc tấn công vào Alexandria. Trong chiến tranh thế giới lần thứ II, quân đội Nhật Bản đã thành lập đơn vị chuyên nghiên cứu vũ khí sinh học gọi là đơn vị 731. Sau những kết quả nghiên cứu tạo ra loài bọ chét Pulex irritans có sức đề kháng cao, có tính chọn lọc vật chủ là người và có khả năng lây truyền vi khuẩn dịch hạch vào quần thể chuột tại địa phương. Tháng 10 năm 1941, Nhật Bản đã thả xuống Chateh, Trung Quốc nhiều hàng hóa hỗn tạp như lúa mì, lúa, đồ bông, len... Chỉ hai tuần sau đó đã có nhiều người dân tại đây bị chết vì bệnh dịch hạch. Những năm tiếp theo, Mỹ và Liên Xô cũ đã nghiên cứu thành công kỹ thuật phân tán vi khuẩn dịch hạch trực tiếp vào không khí mà không phụ thuộc vào loài bọ chét nên gây thảm họa lớn cho cộng đồng và có thể sử dụng để làm vũ khí sinh học. Vào năm 1970, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thông báo nếu tung khoảng 50kg vi khuẩn dịch hạch Yersinia pestis vào không khí ở một thành phố có 5 triệu dân thì sẽ có khoảng 150.000 người mắc bệnh dịch hạch thể phổi và sẽ có chừng 36.000 trường hợp bị tử vong.
Thực tế trên thế giới, có một số nước đã triển khai nghiên cứu các loại vũ khí sinh học và cách phòng chống trong nhiều năm dựa trên kết quả nghiên cứu của các viện nghiên cứu sản phẩm sinh học, vi sinh vật, độc học, bệnh lây tối nguy hiểm, động vật học, thực vật học, di truyền học... Đồng thời các nhà nghiên cứu về vũ khí đã có một đánh giá về kinh tế của các loại vũ khí như để tạo ra hiệu quả sát thương cho dân cư ở một khu vực có diện tích 1 km2, nếu dùng vũ khí thông thường phải tốn 2.000 USD, nếu dùng vũ khí hạt nhân phải tốn 800 USD, nếu dùng vũ khí hóa học dạng khí độc thần kinh phải tốn 600 USD; còn nếu dùng vũ khí sinh học thì chỉ tốn 1 USD. Như vậy biện pháp sử dụng vũ khí sinh học khá rẻ tiền nhưng hiệu quả tác hại ảnh hưởng không phải là ít.
Chọn loại vũ khí sinh học theo mục đích chiến tranh khủng bố
Các nhà khoa học của Liên Xô cũ trước đây và của Hoa Kỳ đã nghiên cứu, thống kê cho thấy tùy theo mục đích tạo nên chiến tranh hay khủng bố sinh học mà đối phương chọn lựa các dạng sản phẩm sinh học thích hợp. Nếu dùng để giết hại sẽ sử dụng các vi khuẩn gây bệnh tối nguy hiểm với tỷ lệ tử vong cao hoặc các chất độc sinh phẩm, các độc tố gây nhiễm độc nặng dẫn đến tử vong. Nếu dùng để gây hoang mang, reo rắc tâm lý sợ hãi, bất ổn trong xã hội thì sử dụng nhiều loại vi sinh vật gây nên bệnh cảnh lâm sàng khác nhau với đặc điểm dễ lây truyền trong cộng đồng với đường lây nhiễm đa dạng. Nếu dùng để gây tổn thất về kinh tế thì sử dụng các vi sinh vật gây hại cho gia súc, gia cầm thành các ổ dịch lớn; dùng các loại côn trùng, sâu bệnh phá hoại mùa màng, hoa màu, cây ăn quả; dùng các mầm bệnh phá hoại chăn nuôi thủy sản. Nếu dùng để phá hoại cơ sở hạ tầng thì sử dụng các vi sinh vật, mầm bệnh có khả năng phát tán nhanh trong hệ thống đường sá, toa xe, máy bay, tàu thuyền, bến cảng, khu vực đông dân cư, bưu phẩm... Trong các trường hợp nêu trên, động vật chân đốt được xem như một vật mang, vận chuyển hay truyền những tác nhân sinh học gây ra nhũng vụ dịch bệnh lớn nhằm tiêu diệt sinh lực của đối phương. Trên thực tế các loại động vật chân đốt thường được đối phương sử dụng để đảm nhận vai trò phát tán mầm bệnh gây hại.
Hiện nay đã có trên 50 loại vi khuẩn, virus, độc tố có nguồn gốc sinh vật được các nhà khoa học nghiên cứu và liệt kê vào trong danh mục vũ khí sinh học dùng để tấn công khủng bố sinh học và chiến tranh sinh học. Đây cũng là một hình thái thảm họa do con người gây ra để hại con người vì các vũ khí sinh học này là những chủng bệnh, các độc tố có độc lực mạnh gây bệnh nguy kịch với tỷ lệ tử vong cao; có khả năng lây nhiễm qua nhiều đường như da, vết thương, hô hấp, tiêu hóa... Đồng thời có thể phát tán rộng và xa như chứa trong thư, bưu phẩm gửi qua nhiều quốc gia; dùng dưới nhiều dạng như bột, dịch, dạng phun, dùng sinh vật mang bệnh, sinh vật truyền bệnh, các dạng vũ khí như bom, đạn, rocket, thên lửa chứa các mầm bệnh, độc tố... Các quốc gia tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới trong thời gian qua đã lên án khá mạnh mẻ việc sử dụng vũ khí hóa học, vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học vì tính năng hủy diệt con người hàng loạt của chúng với những hậu quả khá nghiêm trọng. Vũ khí sinh học đã được các nhà khoa học xác định là một mối nguy cơ thảm họa cho sức khỏe cộng đồng, vì vậy cần cảnh giác và cần biết cách phòng chống loại vũ khí này; biết cách đáp ứng và xử trí, không để các cuộc tấn công khủng bố sinh học trở thành thảm họa sinh học; gây ảnh hưởng đến sức khỏe, đến cuộc sống và sự phát triển ổn định đất nước khi phải đối mặt với những diễn biến phức tạp như tin tức thời sự quốc tế ở một số các quốc gia.