Nhân Tuần lễ nuôi con bằng sữa mẹ thế giới từ ngày 1/8 đến 7/8 năm 2013, Ban Biên tập Website xin chuyển đến các bạn đọc quan tâm khuyến cáo của WHO và UNICEF về những lợi ích của sữa mẹ đối với trẻ sơ sinh và những điều cần lưu ý qua các kết quả nghiên cứu đạt được.
Tuần lễ nuôi con bằng sữa mẹ từ 1/8 - 7/8/2013.
Tuần lễ nuôi con bằng sữa mẹ được tổ chức từ ngày 1-7 tháng 8 hàng năm ở hơn 170 quốc gia nhằm khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ và cải thiện sức khoẻ của trẻ em trên toàn thế giới. Tuần lễ kỷ niệm tuyên bố về đứa trẻ ngây thơ bởi các nhà làm chính sách của WHO và UNICEF vào tháng 8/1990 nhằm bảo vệ, thúc đẩy và hỗ trợ nuôi con bằng sữa mẹ. Nuôi con bằng sữa mẹ là cách tốt nhất để cung cấp cho trẻ sơ sinh các chất dinh dưỡng, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến cáo nuôi con bằng sữa mẹ cho đến khi trẻ được 6 tháng tuổi và tiếp tục nuôi con bằng sữa mẹ cộng với bổ sung thực phẩm giàu dinh dưỡng cho đến khi trẻ hai tuổi hoặc xa hơn thế nữa.
Bú mẹ hoàn toàn
Bú mẹ hoàn toàn là cách tối ưu để cung cấp thức ăn lý tưởng cho sự tăng trưởng và phát triển khoẻ mạnh của trẻ sơ sinh, nó cũng là một phần không thể thiếu của quá trình sinh sản với ý nghĩa quan trọng đối với sức khỏe của các bà mẹ. Các bằng chứng đã chỉ ra rằng, ở mức quần thể bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng là cách tối ưu trong nuôi dưỡng trẻ nhỏ, sau đó trẻ sẽ nhận được thức ăn bổ sung và tiếp tục cho bú mẹ đến 2 tuổi hoặc hơn thế nữa.
Khuyến cáo của WHO và UNICEF
Để cho phép các bà mẹ thiết lập và duy trì bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, WHOvà UNICEF khuyến cáo nên cho con bú trong giờ đầu tiên của cuộc sống, bú sữa mẹ hoàn toàn do trẻ sơ sinh chỉ nhận được sữa mẹ mà không cần bất kỳ thực phẩm bổ sung hay đồ uống, thậm chí không nước, cho con bú theo nhu cầu thường xuyên trong ngày và đêm,kể cả khi trẻ muốn, không sử dụng các chai, núm vú hoặc núm vú giả.
Sữa mẹ là thức ăn đầu tiên tự nhiên cho trẻ sơ sinh cung cấp tất cả các năng lượng, dinh dưỡng cần thiết trong những tháng đầu tiên và tiếp tục cung cấp một nửa hoặc nhiều hơn nhu cầu dinh dưỡng của trẻ từ 7 đến 12 tháng tuổi, lên đến một phần ba trong năm thứ hai của cuộc sống. Sữa mẹ thúc đẩy phát triển cảm giác, nhận thức và bảo vệ trẻ chống lại các bệnh truyền nhiễm mãn tính. Bú mẹ hoàn toàn làm giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh do các bệnh thông thường ở trẻ em như tiêu chảy hoặc viêm phổi, giúp cho sự phục hồi nhanh hơn trong thời gian bị bệnh. Những ảnh hưởng này có thể được đánh giá trong các xã hội thiếu nguồn lực và giàu có (Kramer M và cộng sự khuyến khích thử nghiệm cho con bú bằng sửa mẹ (probit): Một thử nghiệm ngẫu nhiên tại nước Cộng hòa Belarus Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Mỹ, năm 2001, 285 (4):. 413 -420). Cho con bú bằng sữa mẹ góp phần nâng cao sức khỏe và hạnh phúc của bà mẹ, làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng và ung thư vú, giúp cho trẻ em không gian, gia tăng tình cảm gia đình và nguồn lực quốc gia, an toàn trong nuôi dưỡng và môi trường. Khi cho con bú là một hành động tự nhiên, đồng thời cũng là một hành vi học; một nghiên cứurộng lớn đã chứng minh rằng các bà mẹ và người chăm sóc khác cần hỗ trợ tích cực cho việc thiết lập và duy trì thực hành cho con bú thích hợp.
WHO và UNICEF phát động Sáng kiến Bệnh viện thân thiện với trẻ em (BHFI) vào năm 1992 để tăng cường thực hành sản khoa nhằm hỗ trợ cho con bú. Nền tảng cho BFHI là Mười bước để cho con bú thành công được mô tả trong bảo vệ, thúc đẩy và hỗ trợ nuôi con bằng sữa mẹ-một sự kết hợp của WHO/UNICEF đã được tổng kết trong một tài liệu khoa học. Các BFHI được thực hiện trong khoảng 16.000 bệnh viện ở 171 quốc gia, đã góp phần cải thiện việc cho bú mẹ hoàn toàn trên thế giới. Trong khi dịch vụ thai sản được cải thiện giúp gia tăng thời gian bắt đầu bú hoàn toàn bằng sửa mẹ, hỗ trợ trong cả hệ thống y tế là cần thiết để giúp các bà mẹ duy trì bú mẹ hoàn toàn. WHO và UNICEF đã phát triển tư vấn cho con bú 40 giờ: một khóa huấn luyện để đào tạo đội ngũ nhân viên y tế có thể cung cấp hỗ trợ kỹ năng cho các bà mẹ cho con bú và giúp họ vượt qua khó khăn, cả hai tổ chức cũng đã phát triển một liệu trình tư vấn 5 ngày về nuôi trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, đào tạo nhân viên y tế để họ có kỹ năng và thúc đẩy cho con bú thích hợp, cho ăn bổ sung và nuôi dưỡng trẻ sơ sinh trong bối cảnh HIV. Kỹ năng hỗ trợ cho con bú cơ bản cũng là một phần trong khoá đào tạo 11 ngày về xử trí lồng ghép ca bệnh cho cán bộ y tế tuyến đầu tiên, trong đó kết hợp các kỹ năng xử lý phù hợp với chăm sóc phòng ngừa. Đánh giá của tư vấn cho con bú được cung cấp bởi các chuyên gia y tế được đào tạo cũng như các nhân viên cộng đồng chỉ ra rằng đây là một can thiệp hiệu quả để cải thiện tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn. Chiến lược toàn cầu về nuôi dưỡng cho trẻ sơ sinh và trẻ em nhỏ mô tả các biện pháp can thiệp cần thiết để thúc đẩy, bảo vệ và hỗ trợ bú mẹ hoàn toàn.
Nuôi con bằng sữa mẹ: chỉ có 1 trong 5 quốc gia thực hiện đầy đủ luật về sữa bột cho trẻ em của WHO
Theo một báo cáo mới của WHO được công bố trong tuần nuôi con bằng sữa mẹ thế giới, được tổ chức tại hơn 170 quốc gia từ ngày1-7 tháng 8; nuôi con bằng sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ và làmột trong những cách hiệu quả để đảm bảo sức khỏe và sự sống còn của trẻ em. Trẻ sơ sinh được nuôi bằng sữa mẹ ít có khả năng bị thừa cân hoặc béo phì sau này, ít bị bệnh tiểu đường và thực hiện tốt hơn trong các bài kiểm tra trí thông minh, nhưng trên toàn thế giới chỉ có khoảng 38% trẻ sơ sinh được bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Theo Tiến sĩ Carmen Casanovas-chuyên gia về nuôi con bằng sữa mẹ ở Bộ môn Dinh dưỡng sức khỏe và phát triển của WHO, tất cả các bà mẹ có thể chất có thể cho con bú, nếu họ có thông tin chính xác và hỗ trợ; tuy nhiên trong nhiều trường hợp, phụ nữ không được khuyến khích làm như vậy và đang bị lừa dối để tin rằng họ đang đưa con cái của họ một khởi đầu tốt hơn trong cuộc sống bằng cách mua sản phẩm thay thế mang tính thương mại.
Thi hành Bộ luật
Chỉ có 37 trong 199 quốc gia (19%) báo cáo phản ánh các khuyến nghị với WHO về thi hành Bộ luật quốc tế các sản phẩm thay thế sữa mẹ đã được thông qua, trong đó 69 (35%) quốc gia hoàn toàn không cho phép quảng cáo sản phẩm thay thế sữa mẹ; 62 (31%) cấm các mẫu sữa bột miễn phí, vật tư chi phí thấp cho các dịch vụ y tế; 64 (32%) cấm quà tặng của bất kỳ loại nào từ các nhà sản xuất có liên quan đến nhân viên y tế; 83 (42%) yêu cầu một thông điệp về tính ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹ trên nhãn thay thế sữa mẹ; chỉ có 45 (23%) quốc gia báo cáo thực hiện chức năng và hệ thống giám sát.
Các bà mẹ thường tràn ngập thông tin không chính xác và sai lệch ở cả hai mặt trực tiếp thông qua quảng cáo, tuyên bố sức khỏe, gói thông tin và người đại diện bán hàng; gián tiếp thông qua hệ thống y tế công cộng, báo cáo ghi nhận. Ví dụ, phân phối các "Tài liệu giáo dục" cho con bú sữa mẹ được sản xuất bởi các nhà sản xuất sữa bột trẻ em, có tác động tiêu cực trên bú mẹ hoàn toàn, đặc biệt là bà mẹ có con đầu lòng và những ngườiít có trình độ học vấn, sự phân bố của các mẫu sữa bột trẻ em cũng có tác động xấu đến nuôi con bằng sữa mẹ. Lo ngại các sản phẩm thay thế sữa mẹ đã được bán trên thị trường cho các bà mẹ quá mạnh, Đại hội đồng Y tế Thế giới lần thứ 27 (năm 1974) đã thúc giục các nước thành viên xem xét hoạt động xúc tiến bán hàng trên thực phẩm em bé và giới thiệu các biện pháp khắc phục hậu quả thích hợp, bao gồm cả mã số quảng cáo và pháp luật khi cần thiết; dẫn đến thỏa thuận về Bộ luật quốc tế về các sản phẩm thay thế sữa mẹ (năm 1981) và việc thông qua một số giải pháptiếp theo về vấn đề này. Thực hiện đầy đủ luật là rất quan trọng để giảm thiểu hay loại bỏ tất cả các hình thức quảng bá sản phẩm thay thế sữa mẹ, bao gồm cả quảng cáo trực tiếp và gián tiếp cho phụ nữ mang thai và các bà mẹ của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. WHO hỗ trợ các nước thực hiện giám sát luật và "thực hiện kế hoạch toàn diện về bà mẹ, trẻ sơ sinh và dinh dưỡng cho trẻ em" nhằm gia tăng tỷ lệ toàn cầu của bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đạt tỷ lệ 50% vào 2025. Để hỗ trợ thực hiện, WHO đã phát triển các khóa huấn luyệnnhân viên y tế, cung cấp hỗ trợ kỹ năng cho các bà mẹ cho con bú(bao gồm cả người mẹ nhiễm HIV), giúp họ vượt qua các khó khăn và theo dõi sự phát triển của trẻ em, để họ có thể xác định sớm nguy cơ suy dinh dưỡng hoặc thừa cân/béo phì.
Trong tuần lễ nuôi con bằng sữa mẹ thế giới 2013, WHO và các đối tác kêu gọi hỗ trợ nhiều hơn cho các bà mẹ cho con bú. Nhiều phụ nữ nuôi con bằng sữa mẹ đã được học và gặp khó khăn ban đầu như đau núm vú và sợ không có đủ sữa để duy trì cho trẻ. Cơ sở y tế hỗ trợ nuôi con bằng sữa mẹ, bằng cách các nhân viên đã được huấn luyện tư vấn các bà mẹ mới, khuyến khích tỷ lệ thực hành cao hơn để cung cấp sự hỗ trợ này và cải thiện chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh, có cơ sở "bé thân thiện" trong hơn 150 quốc gia, nhờ vào sáng kiến Bệnh viện thân thiện vớitrẻ em của WHO-UNICEF. Sữa mẹ cho trẻ sơ sinh tất cả các dưỡng chất cần thiết phát triển lành mạnh, an toàn và có chứa các kháng thể giúp bảo vệ trẻ sơ sinh tránh các bệnh thông thường như tiêu chảy và viêm phổi, là hai nguyên nhân chính gây tử vong cho trẻ em trên toàn thế giới, sữa mẹ luôn sẵn có và giá cả phải chăng, giúp đảm bảo trẻ có đượcdinh dưỡng đầy đủ. Sữa bột cho trẻ em không chứa các kháng thể được tìm thấy trong sữa mẹ, bổ sung những nguy cơphát sinh từ việc sử dụng nước không an toàn và thiết bị không được tiệt trùng hoặc sự hiện diện tiềm tàng của vi khuẩn hoặc chất gây ô nhiễm khác trong sữa bột. Suy dinh dưỡng có thể là kết quả việc pha quá loãng sữa bộtđể "kéo dãn" nguồn cung cấp. Trong khi cho bú thường xuyên duy trì nguồn cung cấp sữa mẹ, nếu sữa bột được sử dụng nhưng không có sẵn, thì cho con bú trở lại là một lựa chọn do sản xuất sữa mẹ giảm sút. Nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ cũng có lợi cho các bà mẹ, liên quan đến một phương pháp tự nhiên của kiểm soát sinh đẻ (98% bảo vệ trong 6 tháng đầu sau khi sinh), làm giảm nguy cơ ung thư vú vàung thư buồng trứng sau này và giúp phụ nữ trở lại cân nặng trước khi mang thai nhanh hơn.
Thời gian bú sữa mẹ có thể có liên quan với sự thông minh
Một nghiên cứu về mối liên quan giữa độ dài về thời gian bú sữa mẹ và chỉ số IQ đã được xuất bản trên tạp chí Nhi khoa JAMA, kết quả nghiên cứu xác định trẻ em được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ lâu hơn có chỉ số thông minh (IQ) cao hơn.
Mandy Brown Belfort là nhà sơ sinh học ở bệnh viện nhi khoa Boston và giáo sư nhi khoa ở Đại học Y khoa Harvard-người chủ trì nhóm nghiên cứu ở Bệnh viện Nhi khoa Boston thuộc bang Massachusetts, sử dụng các test được chuẩn hóa, đo lường chỉ số IQ của 1.300 trẻ có mẹ tham gia nghiên cứu trong một thời gian dài nhằm tìm cách cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Các điều tra thử nghiệm ở trẻ tuổi lên 3, không sử dụng gì thay vì bú sữa mẹ trong năm đầu tiên, có khả năng hiểu biết ngôn ngữ, năng khiếu trung bình là 2,5% cao hơn so với trẻ được cho dùng sữa bột. Sau đó ở tuổi lên 7, xác định chỉ số IQ theo ngôn ngữ và không theo ngôn ngữ, cóảnh hưởnghơi mạnh hơn một chút; vì thế với trẻ bú sữa mẹ thêm một tháng thì chỉ số IQ có cao hơn 1/3 điểm. Bú sữa mẹ là không có liên quan với chỉ số thông minh cao hơn trên một test đo lường trí nhớ và khả năng học tập; tuy nhiên, các nhà nghiên cứu thấy rằng kỹ năng vận động thị giác hay khả năng của mắt hướng theo các chuyển động tốt hơn trong số các trẻ 3 tuổi mà mẹ của chúng sử dụng hai hay nhiều hơn khẩu phần về cá trong một tuần. Ở điểm này, các nhà điều tra chỉ có thể suy đoán như là lý do tại sao trẻ được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ có chỉ số IQ cao hơn do có nhiều chất dinh dưỡng hoặc các chất khác trong sữa mẹ giúp cho sự phát triển của não, nhưng vẫn chưa được phát hiện vì thế không bổ sung đều đặn các sữa bột trẻ em; một cách lý giải khác có thể là độ dài về thời gian bú sữa mẹ trên chỉ số IQ có mối tương tác giữa bà mẹ và trẻ em giúp tăng cường trí thông minh của trẻ.