Kết thúc năm 2013, các tạp chí khoa học hàng đầu thế giới đồng loạt công bố các phát minh tiêu biểu trong năm. Riêng lĩnh vực y học, phát minh liệu pháp miễn dịch ung thư đã được hầu hết các tạp chí tôn vinh đứng đầu danh sách bởi nó có hàm lượng chất xám cao, mang lại nhiều hứa hẹn trong công cuộc phòng chống ung thư cho nhân loại (Theo Science/Reuters, 12/2013)
Liệu pháp miễn dịch ung thư là gì?
Liệu pháp miễn dịch ung thư (Cancer Imunotherapy), gọi tắt là liệu pháp CI là kỹ thuật sử dụng hệ miễn dịch của cơ thể hay kích thích hệ thống miễn dịch của bệnh nhân tấn công lại các tế bào khối u ác tính. Liệu pháp này có thể là thông qua tiêm chủng cho bệnh nhân (ví dụ, dùng một thuốc chủng ngừa vaccin ung thư như sản phẩm Provenge của hãng Dendreon), nhằm giúp hệ thống miễn dịch của cơ thể người bệnh nhận dạng nhanh tế bào khối u sau đó tiến hành tấn công, hoặc thông qua việc điều trị bằng kháng thể để giúp hệ thống miễn dịch tiêu diệt được tế bào ung thư. Liệu pháp miễn dịch ung thư dựa trên tế bào là một dạng khác của liệu pháp miễn dịch ung thư. Bao gồm các tế bào miễn dịch, như tế bào sát thủ tự nhiên (tế bào NK), tế bào sát thủ Lymphokine hoạt hóa (LAK), Cytotoxic T Lymphocytes (CTL), tế bào đuôi gai (DC)..., được kích hoạt trong cơ thể bằng cách giám sát các cytokine nhất định như interleukin hoặc cô lập chúng, tích tụ và hóa lỏng để giúp người bệnh chống lại ung thư.
Nguyên thủy, liệu pháp miễn dịch ung thư được các nhà khoa học quan tâm từ năm 1796 khi Edward Jenner sản xuất vaccin đầu tiên liên quan đến tiêm chủng để ngăn chặn bệnh đậu mùa. Đến cuối thế kỷ 19, Emil von Behring và Kitasato Shibasabo phát hiện thấy tiêm độc tố bạch hầu sản xuất huyết thanh chống độc tố vào cho động vật để nó kháng bệnh. Theo nghiên cứu này thì “viên đạn ma thuật” chính là sử dụng kháng thể nhắm vào một căn bệnh cụ thể. Đến năm 1975, hai nhà khoa học người Mỹ là Georges JF Köhler và César Milstein đã nghiên cứu thành công kháng thể đơn dòng tinh khiết bằng công nghệ hybridoma. Năm 1997, Cơ quan Quản lý Thuốc - Thực phẩm Mỹ ( FDA) đã cho phép điều trị bệnh u lympho nang bằng kháng thể Rituximab. Từ đây, 11 kháng thể nữa ra đời, được phê duyệt để điều trị ung thư. Vaccin ung thư được sản xuất muộn hơn nhưng lại hiệu quả hơn. Loại vaccin ung thư dùng cho liệu pháp miễn dịch tế bào đầu tiên có tên Sipuleucel-T, chính thức được phê duyệt năm 2010 để điều trị ung thư tuyến tiền liệt.
Vì sao CI được xem là đột phá y học 2013?
Trong số ra ngày 19/12, tạp chí Science của Mỹ đã bình chọn liệu pháp CI là “bước đột phá của năm” mặc dù nghiên cứu mới chỉ trong giai đoạn khởi đầu. Nhưng thay vì nhắm vào chính khối u, liệu pháp CI có thể tạo ra khả năng cho tế bào miễn dịch tấn công lại ung thư. Liệu pháp này có tác dụng trên một số dạng ung thư như u hắc tố (một dạng ung thư da) và bệnh bạch cầu (ung thư máu), nhưng triển vọng của nó hết sức to lớn. Một trong số những kỹ thuật của liệu pháp miễn dịch ung thư, có tên là liệu pháp tế bào T, lấy các tế bào T của con người, một loại tế bào máu trắng và sử dụng kỹ thuật di truyền để thay đổi mã di truyền tế bào giúp nó nhận ra và tấn công các tế bào ung thư có hiệu quả hơn. Trong số ra tháng 3/2013, tạp chí Science Translational Medicine đã đăng tải nghiên cứu ở 5 người lớn mắc bệnh bạch cầu cấp tính, căn bệnh thường gây tử vong ở người lớn, kết quả 3 bệnh nhân thuyên giảm sau khi trải qua liệu pháp tế bào T.
Điều trị ung thư bằng liệu pháp CI có thể tóm tắt như sau: Tế bào lympho T sau khi nhận diện tế bào đích qua kháng nguyên đặc hiệu thì biệt hóa thành 2 dòng tế bào, T CD4+ và T CD8+. T CD8+ hay còn gọi là T gây độc là tế bào trực tiếp tiết độc tố gây chết các tế bào đích. Trong khi đó, T CD4+ (T bổ trợ) thì hoạt hóa các tế bào chức năng miễn dịch nhằm đem lại một hiệu quả tổng hợp đối với tế bào đích. Việc điều trị ung thư truyền thống thường gây những hiệu ứng phụ nghiêm trọng, lý do hệ miễn dịch không nhận biết tế bào ung thư bởi những tế bào này cũng do chính cơ thể sinh ra. Bằng cách lợi dụng một kháng nguyên bề mặt NY-ESO-1 đặc hiệu với tế bào ung thư da (melanoma), các nhà khoa học đã chọn lọc thành công dòng tế bào lympho T CD4+ có tác dụng chuyên biệt lên tế bào ung thư da. Khoảng 5 công ty dược lớn trên thế giới hiện nay đang nghiên cứu về liệu pháp này. Ngay trong tháng 12/2013, một nghiên cứu có quy mô lớn dùng liệu pháp kháng nguyên chống CTLA-4 (thương hiệu ipilimumab) và một hợp chất khác gọi là anti-PD-1, bao gồm biến đổi tế bào T bệnh nhân để bắt chúng tấn công khối u, đã thành công trong việc điều trị thử nghiệm, giúp 45/75 bệnh nhân bạch cầu thuyên giảm hoàn toàn, trong số này có bệnh nhân mới 8 tuổi tên là Emily Whitehead. Trong một nghiên cứu thử nghiệm anti-PD-1 ở gần 300 người với các loại ung thư khác nhau, trung bình khối u co lại một nửa, riêng bệnh nhân có khối u ác tính đạt 31% và 29% ở nhóm ung thư thận.
10 khám phá y học hàng đầu trong năm 2013
Cấy nang tóc để điều trị hói, nuôi dưỡng trứng “kém chất lượng” thành trứng khỏe hay viên thuốc chứa vi khuẩn đường ruột được đánh giá là những bước đột phá y học tiêu biểu trong năm 2013 trên tạp chí Time.
10. Phát hiện sớm bệnh Parkinson
Phần lớn các bệnh thoái hóa thần kinh hay gặp như bệnh Alzheimer và Parkinson, có thể được điều trị tốt hơn nếu có thể phát hiện và can thiệp ngay từ giai đoạn sớm. Ví dụ, cho đến lúc triệu chứng đầu tiên của bệnh Parkinson xuất hiện - run ở ngón tay hoặc ở môi, mất khứu giác hoặc căng cứng cơ mặt - thì tổn thương ở não và hệ thống thần kinh chi phối vận động đã không thể đẩy lùi.
Tuy nhiên, các nhà khoa học đã tìm ra một bộ các protein trong dịch não tủy giúp xác định bệnh nhân trong giai đoạn đầu tiên của bệnh. Các chuyên gia hy vọng phát hiện này sẽ khởi động những nghiên cứu mới để tìm hiểu xem liệu các thuốc không tác dụng trên bệnh nhân giai đoạn muộn có hiệu quả hơn trong kiểm soát triệu chứng ở người bị bệnh giai đoạn sớm hay không.
9. Những gen mới liên quan với bệnh Alzheimer
Gần một chục gen mới được phát hiện có liên quan với thể bệnh Alzheimer hay gặp nhất, xảy ra ở người cao tuổi, đã đưa số lượng gen được biết có liên quan với căn bệnh này lên con số 24. Những gen mới phát hiện có vai trò trong viêm và đáp ứng miễn dịch của cơ thể, cả hai đều liên quan với những thay đổi trong não thường đi kèm với bệnh Alzheimer. Với nhiều gen được phát hiện hơn, các nhà nghiên cứu sẽ có nhiều đích tác dụng hơn cho các thuốc có thể điều trị triệu chứng mất trí nhớ và sa sút trí tuệ đặc trưng cho căn bệnh này.
8. Biến trứng “yếu” thành trứng “khỏe”
Chất lượng trứng kém là một trong những lý do khiến nhiều phụ nữ khó có thai. Những các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Stanford đã phát triển một kỹ thuật giúp phụ nữ bị suy buồng trứng lại tiếp tục sản sinh trứng trưởng thành khỏe mạnh. Quá trình được gọi là hoạt hóa trứng trong ống nghiệm, bao gồm lấy một buồng trứng hoặc một mảnh buồng trứng ra khỏi cơ thể, xử lý trong phòng thí nghiệm với các protein và những yếu tố khác giúp các nang trứng non phát triển thành trứng trưởng thành. Sau đó mô đã xử lý được ghép trở lại vào gần ống dẫn trứng. Cho tới nay, trong số 27 phụ nữ tự nguyện thử nghiệm kỹ thuật này, 5 người tạo được trứng có khả năng thụ thai, một người đã có thai và một người khác đã sinh con khỏe mạnh.
7. Thuốc từ … vi khuẩn đường ruột
Đường ruột là nơi trú ngụ của rất nhiều vi khuẩn có ích – giúp tiêu hóa thức ăn và chống lại những vi khuẩn gây bệnh. Hệ vi khuẩn chí có ích trong ruột cũng có thể tiêu diệt Clostridium difficile, một thủ phạm gây tiêu chảy và viêm đại tràng. “Đóng gói” quần thể vi khuẩn ruột trong một viên thuốc là sáng kiến của TS. Thomas Louie, Trường Đại học Calgary. Trong số 27 bệnh nhân được thử nghiệm uống loại thuốc này, không ai bị tái phát triệu chứng nhiễm Clostridium.
6. Tin vui cho người hói
Các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Columbia, Mỹ cho biết việc ghép các nang tóc, có chứa chân của sợi tóc mới, cùng với những tế bào xung quanh – có thể là chìa khóa tái tạo lại tóc. Trong thí nghiệm, học đã lấy những mảnh da bao quy đầu từ những em bé cắt bao quy đầu và ghép lên chuột. Da bao quy đầu được sử dụng vì nó không có các nang lông, vì thế sẽ không sợ nhầm giữa nang lông có sẵn và “mới trồng”. Kết quả cho thấy những nang lông mới được ghép vào đã “bám rễ” và mọc lên – mang đến niềm hy vọng lớn cho những người “ít tóc”.
5. Ít mà lại hơn: Một liều vắc xin đủ chống HPV thay vì 3 liều
Vắc xin papillomavirus người (HPV) là một trong những cách tốt nhất để phòng ngừa mụn cóc sinh dục và ung thư cổ tử cung, nhưng chỉ một nửa số bé gái và bé trai 11 -12 tuổi tiêm đủ ba liều như khuyến cacó. May mắn là nếu nghiên cứu mới nhất được khẳng định, thì việc tiêm 3 liều sẽ không còn cần thiết nữa. Các nhà khoa học thấy rằng một liều vắc xin duy nhất cũng tạo ra mức kháng thể nhiều gấp 24 lần mức mà vi rút tạo ra trene một nhóm phụ nữ ở Costa Rica.
Tuy chưa rõ liệu mức kháng thể này có đủ để ngăn ngừa nhiễm vi rút và giảm nguy cơ ung thư hay không, song các nhà khoa học cho rằng chỉ cần một liều vắc xin có thể là đã đủ để bảo vệ chống lại HPV.
4. Rút cuộc, chúng ta sẽ giống như cừu Doly?
Mất 17 năm với một scandal chấn động về nghiên cứu khoa học giả mạo, nhưng cuối cùng các nhà nghiên cứu về tế bào gốc đã hoàn thành việc mà họ từng làm với cừu Dolly -đó là nhân bản người.
Nhóm các nhà khoa học tại Trường Đại học Khoa học và Sức khỏe Oregon, Mỹ đã thành công trong việc đưa tế bào da đã phát triển đầy đủ của người vào trứng đã lấy bỏ nhân, sau đó dùng hóa chất và đi để kích thích trứng phân chia để tạo thành tế bào gốc phôi thai – tương tự quy trình đã được dùng để nhân bản cừu Dolly. Tế bào gốc là nền tảng tạo nên toàn bộ các mô và cơ quan của cơ thể, và người ta hy vọng một ngày nào đó tế bào gốc sẽ được sử dụng để điều trị một loạt bệnh từ Alzheimer tới bệnh tim và tiểu đường.
3. Xét nghiệm thai nghén tại nhà đầu tiên cho biết quá trình mang thai
Test thai nghén có tên Clearblue Advanced Pregnancy Test with Weeks Estimator là xét nghiệm tại nhà đầu tiên được Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ phê duyệt không chỉ phát hiện thai nghén, mà còn ước tính quá trình mang thai diễn ra trong bao lâu, dựa trên thời gian từ khi rụng trứng rụng. Xét nghiệm cũng sử dụng nồng độ hoóc môn HCG, loại hoóc môn báo hiệu có thai, để đưa ra ước tính này.
2. Thay đổi lớn trong điều trị mỡ máu
Khi nói đến cholesterol, các bác sĩ nhắc đi nhắc lại về chỉ số. Nhưng điều này có thể thay đổi với hướng dẫn mới đây về điều trị cholesterol của Hội Tim Mỹ và Trường Cao đẳng Tim mạch Mỹ. Khuyến cáo được sử đổi chú trọng đến vô số những yếu tố góp phần gây bệnh tim - ngoài cholesterol cao – và cách điều trị tốt nhất. Nếu bạn không có tiền sử gặp những vấn đề về tim mạch, thì một công thức tính mới, với các hệ số gồn tuổi, giới, tiền sử hút thuốc lá, tiểu đường, huyết áp và nồng độ cholesterol, có thể giúp bạn và bác sĩ quyết định xem có nên dùng các thuốc statin để giảm cholesterol, giúp phòng ngừa cơn đau tim hoặc đột quị đầu tiên hay không.
1. Tiến tới kết thúc đại dịch: Một bé sơ sinh được chữa khỏi HIV
Không tin được điều là này sự thật, TS. Nhi khoa Hannah Gay tại Trung tâm Y học Đại học Mississippi đã kiểm tra lại các số liệu, và một lần nữa xác nhận. Một em bé sinh ra từ người mẹ bị nhiễm HIV vẫn không có vi rút 2 năm sau khi ra đời - hay nói cách khác đã được điều trị khỏi HIV.
Tuy đã biểu hiện những dấu hiệu của nhiễm HIV từ ngay sau khi sinh, song có lẽ lượng vi rút trong cơ thể bé đã được quét sạch nhờ phối hợp 3 thuốc kháng HIV mà bình thường các bác sĩ vẫn sử dụng để điều trị cho trẻ lớn hơn và cho người lớn . Nói chung, các bác sĩ thươ]ngf cho cả người mẹ có HIV dương tính và em bé mới đẻ một liều thuốc kháng HIV duy nhất trong cuộc đẻ để ngăn chặn sự lây truyền HIV từ mẹ sang con. Nhưng vì mẹ của em bé này không biết mình nhiễm HIV nên đã không áp dụng biện pháp phòng ngừa này. Vì thế BS. Gay và cộng sự đã thử sử dụng phối hợp thuốc mạnh hơn, và biện pháp này đã có tác dụng. Vi rút không tái phát ngày cả sau khi bé đã ngừng uống thuốc. Các chuyên gia có phần thận trọng trước thông tin lạc quan này, nhất là khi nghiên cứu nghiên cứu mới nhất cho thấy lượng HIV “nằm ngủ” trong cơ thể của người bệnh nhiều hơn tới 60% so với đánh giá trước đây. Những ổ chứa này có thể gây ra những đợt nhiễm mới. Nhưng em bé ở Mississippi mang lại niềm hy vọng là nếu các bác sĩ có thể can thiệp đủ sớm sau khi nhiễm HIV xảy ra thì bệnh có khả năng bị chặn đứng.
6 công nghệ làm thay đổi y khoa
Y khoa sẽ không còn điều trị bằng những công thức chung, mà hướng tới công thức riêng cho từng bệnh nhân, bởi mỗi cá thể là một thế giới hoàn toàn khác biệt với kiểu gen, thông số sinh học, môi trường sống, thói quen sinh hoạt - ăn uống - vận động và nhiều thông số khác...
1/ Artificial Intelligence
Y khoa sẽ không còn điều trị bằng những công thức chung, mà hướng tới công thức riêng cho từng bệnh nhân, bởi mỗi cá thể là một thế giới hoàn toàn khác biệt với kiểu gen, thông số sinh học, môi trường sống, thói quen sinh hoạt - ăn uống - vận động và nhiều thông số khác... không bộ óc bác sĩ nào có thể phân tích được nguồn dữ liệu cực lớn này, cùng với nguồn dữ liệu khổng lồ của các nghiên cứu - thử nghiệm thuốc - điều trị đã và đang thực hiện. IBM Watson là bộ óc thông minh tổng hợp tất cả dữ liệu, phân tích và đề ra một liệu pháp phù hợp cho từng cá thể. Lưu ý đây chỉ là một phần của tham vọng cực lớn mà IBM Watson muốn thực hiện.
2/ Brain-computer và Brain-Brain interface
Nhóm nghiên cứu tại đại học Harvard đã và đang thực hiện những thử nghiệm: Con người dùng bộ não của mình điều khiển đuôi con chuột, cũng như những chuyển động của người khác. Những điều chỉ có ở phim giả tưởng có khả năng sẽ thành hiện thực: Điều khiển hướng dẫn bệnh nhân từ xa, điều khiển người khác phẫu thuật và nhiều ứng dụng khác có thể được tưởng tượng ra.
3/ Công nghệ 3D printing
Trở lại hiện tại một chút, công nghệ 3D printing đã thành công bước đầu trong việc tạo ra mẫu mô người, được chứng minh có hoạt động tương tự mô người tự nhiên. Công nghệ này mở ra khả năng thử nghiệm độc chất, bệnh tật, thuốc trên mẫu mô người trước khi sử dụng trên người. Thậm chí công nghệ này còn được dự kiến có thể thay thế - ghép - sửa chữa những cơ quan bị suy yếu.
4/ Robotics
Phiên bản đầu tiên của Eksobionics có thể giúp người liệt 2 chân có thể đứng và đi lại độc lập.
5/ Chẩn đoán điện tử
Một sản phẩm cầm tay, không xâm lấn có thể chẩn đoán tốt hơn một nhóm bác sĩ không? Dù có hay không, các thiết bị hiện nay đã có thể thu thập số liệu, chẩn đoán, gửi thông tin đến bác sĩ đang du lịch ở đâu đó và điều trị bệnh nhân từ xa.
6/ Giao tiếp bác sĩ - bệnh nhân tự động hoá
Máy móc - công nghệ có thể đánh giá tiền sử bệnh lý, kiểm tra dấu hiệu sinh tồn, chẩn đoán, giải quyết một phần công việc, cũng như thu thập và theo dõi liên tục các thông số sinh học (mc10inc)... những công nghệ này đã góp phần lớn giải phóng bệnh nhân khỏi bác sĩ - bệnh viện, cũng như giảm bớt công việc của nhân viên y tế, dành cho nhân viên y tế nhiều thời gian vào những công việc khác quan trọng hơn.
Những công nghệ này đã dẫn đến những thay đổi với tốc độ chóng mặt cả về dịch vụ y tế, chất lượng y tế, nhận thức của người dân, thậm chí là thói quen thực hành của nhân viên y tế. Thật là khó để dự đoán những gì sẽ xảy ra tiếp theo…