Thủy lợi ở các khu vực khô hạn có thể làm gia tăng nguy cơ bệnh sốt rét trong một thập kỷ.Ô nhiễm không khí có liên quan đến giảm tuổi thọ đáng kể.
Thủy lợi ở các khu vực khô hạn có thể làm gia tăng nguy cơ bệnh sốt rét trong một thập kỷ
12/8/2013, một nghiên cứu mới từ Đại học Michigan ở phía Tây bắc Ấn Độ kết luận: các hệ thống thủy lợi mới trong vùng khô hạn tạo ra ích lợi đối với nông dân nhưng có thể làm gia tăng nguy cơ bệnh sốt rét tại chỗ cho hơn một thập kỷ, dài hơn nhiều so với suy nghĩ trước đây, mặc dù sử dụng các thuốc diệt muỗi mạnh mẽ và tốn kém.
Các phát hiện của nghiên cứu chứng minh sự cần thiết phải bao gồm một cam kết ràng buộc mạnh mẽ đến tài chính và thực hiện các chương trình an toàn và sức khỏe công cộng dài hạn khi xây dựng các công trình thủy lợi quy mô lớn, theo các nhà nghiên cứu. Andres Baeza, tác giả dẫn đầu và sinh viên tốt nghiệp U-M làm việc trong phòng thí nghiệm của Mercedes Pascual ở Khoa sinh thái học và sinh vật họctiến hóa cho biết: "Trong hệ sinh thái mong manh và khô hạn này, nơi gia tăng lượng nước sẵn có do lượng mưa là yếu tố hạn chế cho sự lan truyền bệnh sốt rét, thì cơ sở hạ tầng thủy lợi có thể làm thay đổi quần thể muỗi phong phú đến mức trên ngưỡng cần thiết để duy trì sự lan truyền bệnh sốt rét. Kết quả của chúng tôi nhấn mạnh sự cần thiết phải xem xét tác động sức khỏe trong các kế hoạch dài hạn, đánh giá và giảm thiểu tác động của các dự án liên quan đến nguồn tài nguyên nước".
Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu những thay đổi trong sử dụng đất và nguy cơ sốt rét xung quanh một dự án thủy lợi lớn được xây dựng trong một khu vực bán khô hạn ở phía Đông bắc của bang Gujarat, Ấn Độ. Nước từ dự án cuối cùng dự kiến sẽ bao phủ cho hơn 47 triệu mẫu Anh và sẽ taọ ra sự hưởng lợi cho khoảng một triệu nông dân. Nguy cơ mắc sốt rét trong vùng khô hạn thường tăng lên khi thủy lợi được đưa vào sử dụng, do tăng số lượng nước ứ đọng mà nó phục vụ như là nơi sinh sản của muỗi. Trên toàn cầu, số lượng người có nguy cơ mắc bệnh sốt rét do gần các kênh mương thủy lợi và cơ sở hạ tầng liên quan đã được ước tính vào khoảng 800 triệu người, chiếm khoảng 12 phần trăm gánh nặng sốt rét trên toàn cầu. Bằng chứng lịch sử cho thấy rằng sau khi thủy lợi được đưa vào các vùng khô hạn, nguy cơ bệnh sốt rét gia tăng cuối cùng bị xem nhẹ và rằng nguồn lương thực này so với bệnh tật là một giai đoạn tạm thời trên đường tiến đến sự thịnh vượng hơn. Nghiên cứu mới cho thấy rằng giai đoạn chuyển tiếp này từ nguy cơ cao đến nguy cơ thấp về tỷ lệ hiện mắc bệnh có thể kéo dài hơn một thập kỷ. Đây là nghiên cứu đầu tiên kết hợp hình ảnh vệ tinh của thảm thực vật bao phủ với các ghi nhận về y tế công cộng của các ca sốt rét trên một vùng rộng lớn để theo dõi những thay đổi xảy ra khi phát triển của một dự án đại thủy lợi. Phát hiện này dự kiến sẽ được công bố trực tuyến vào ngày 12/8/2013 trong Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia (Proceedings of the National Academy of Sciences).
"Bằng cách theo dõi những thay đổi trong tỷ lệ mắc mới bệnh sốt rét, thảm thực vật và các dữ liệu kinh tế xã hội ở cấp độ tiểu khu vực, chúng tôi xác định một giai đoạn quá độ hướng đến nguy cơ sốt rét thấp bền vững kéo dài trong hơn một thập kỷ và đặc trưng bởi sự thúc đẩy nguy cơ sốt rét do môi trường, bất chấp những nỗ lực kiểm soát muỗi mạnh mẽ. Những phát hiện cho thấy rằng phương pháp môi trường để kiểm soát bệnh bền vững là hết sức cần thiết. Một số trong các phương pháp này bao gồm cả tưới tiêu không liên tục và xả nước định kỳ của các kênh đã được chứng minh là giá cả phải chăng, hiệu quả và khả thi để thực hiện ở cấp độ địa phương. Những thách thức đang ở phía trước, sau đó, sẽ áp dụng những phương pháp này trên cả các vùng rộng lớn và duy trì chúng trong một thời gian đủ dài". Pascual, giáo sư về sinh thái học và sinh vật học tiến hóa của Rosemany Grant Collegiate tại U- M và là một nhà điều tra chính ở Viện Y khoa Howard Hughes nói.
Bệnh sốt rét là do ký sinh trùng Plasmodium gây ra, được truyền qua vết đốt của muỗi Anopheles bị nhiễm ký sinh trùng. Trong cơ thể người, ký sinh trùng nhân lên ở trong gan và sau đó gây nhiễm đến các tế bào hồng cầu. Trong nghiên cứu của PNAS, các nhà nghiên cứu kiểm tra dữ liệu dịch tễ học về các trường hợp mắc bệnh sốt rét được xác định bằng kính hiển vi từ các khu vực nông thôn, một số dữ liệu truy cập lạitừ năm 1997. Sử dụng hình ảnh vệ tinh, các nhà nghiên cứu đã có thể phân biệt cây trồng tưới tiêu với cây trồng không phải tưới bằng dấu hiệụ quang phổ, sau đó có thể xác định mức độ bệnh sốt rét thay đổi như thế nào khi các dự án thủy lợi triển khai hàng loạt. Họ đã chỉ ra rằng nguy cơ mắc bệnh tăng cao-mặc dù sử dụng nhiều hóa chất diệt mạnh tập trung ở khu vực tiếp giáp với kênh tưới tiêu chính đã trải qua sự thay đổi rõ rệt nhất trong các mức thủy lợi trong thập kỷ qua. Họ gắn các cảm biến từ xa và phát hiện các yếu tố dịch tễ học tới các yếu tố kinh tế-xã hội khác nhau. Nhìn chung, các khu vực có nguy cơ cao có tỷ lệ người biết chữ thấp hơn và tiếp cận hạn chế hơn với các nguồn nước sạch. Theo kết luận của các tác giả, một sự hiểu biết tốt hơn về sự khác biệt về kinh tế-xã hội và sinh thái gần đây giữa các khu vực tưới tiêu và thủy lợi hoàn thành có thể cung cấp các phương tiện để giảm bớt sự bùng phát về sốt rét và rút ngắn giai đoạn chuyển tiếp. Ngoài Baeza và Pascual, các tác giả của tờ PNAS là Menno Jan Bouma của Đại học Y học Nhiệt đới và Vệ sinh London, Ramesh Dhiman của Viện Nghiên cứu quốc gia về bệnh sốt rét của Ấn Độ, Edward B. Baskerville của U-M, Pietro Ceccato của Đại học Columbia và Rajpal Yadav của Viện Nghiên cứu về bệnh sốt rét quốc gia Ấn độ và Tổ chức Y tế Thế giới.
Ô nhiễm không khí có liên quan đến giảm tuổi thọ đáng kể
Một nghiên cứu thông báo sớm trong tuần này chứng tỏ rằng ô nhiễm không khí ở Trung quốc có thể rút ngắn tuổi thọ của 500 triệu người Trung quốc khoảng 2,5 tỷ năm. Bài báo xuất bản trên PNAS vào thứ hai, khám xét các dữ liệu ô nhiễm và ghi nhận số ca chết thấy rằng đốt than, một nguồn ô nhiễm không khí lâu dài, có thể gây tổn thương đến sức khoẻ công cộng trên phần phía Bắc của Trung Quốc trong thập niên 1990s. Các phát hiện làm gia tăng quan ngại đối với các quốc gia đang phát triển trên toàn cầu.
Michael Greenstone, một nhà kinh tế học ở Viện công nghệ bang Massachusetts là tác giả chính của nghiên cứu cho biết ông đang bị đặt ra bởi câu hỏi trong quá trình của một cuộc đời, cái giá phải trả cho phơi nhiễm với mức cao của ô nhiễm không khí là gì ? Tuy nhiên, để trả lời các câu hỏi là cực kỳ khó khăn bởi đơn giản so sánh mức ô nhiễm và sức khoẻ ở các địa phương khác nhau có thể dẫn đến sự nhầm lẫn. Một điều là con người thuờng di chuyển từ nơi này đến nơi khác và nhận các mức ô nhiễm khác nhau, vì thếkhông chắc chắn để giả định tất cả mọi người đều có cùng mức ô nhiễm và tiếp cận đến chăm sóc y tế khác nhau trong các nhóm quần thể trên thế giới. "Tôi đã tìm kiếm sự quyết định đúng đắn để trả lời câu hỏi này trong hơn một thập kỷ" Greenstone nói. Một vài năm trước đây một trong các cộng sự của Greenstone thấy một giải pháp có thểtrong một thập kỷ-chính sách cũ của Trung quốc. Từ 1950 đến 1980 chính phủ Trung Quốc ở trong một giai đoạn chuyển đổi xã hội, trong thời kỳ đó "Chính sách sông Huai" cung cấp than miễn phí để sưởi ấm trong nhà và các cơ quan ở phía Bắc sông Huai, chạy dài từ phía Tây đến phía Đông Trung Quốc. Vào thời điểm đó, quy định của chính phủ hạn chế khả năng di chuyển của gia đình vì thế nhiều người sống ở một nơi trong hàng thập kỷ. Bằng cách khám nghiệm tỷ lệ tử vong và các bệnh có liên quan đến hô hấp ở cả hai phía của dòng sông, đội của Greenstone xác định một sự khác biệt: tuổi thọ thấp hơn và nồng độ ô nhiễm là cao hơn ở phía Bắc của dòng sông Huai, nơi đốt than là rộng rãi. "Chúng tôi buộc phải yêu cầu thử nghiệm trên dữ liệu thực tế: có hay không có một sự nhảy vọt ô nhiễm không khí bên phải của bờ sông Huai và thấy tất cả các yếu tố là chính xác”. Để kết nối những điều này, Greenstone và nhóm nghiên cứu khám nghiệm dữ liệu ô nhiễm từ các vị trí trong quốc gia trong những năm 1981 đến 2000, rồi thu thập dữ liệu tử vong từ 145 điểm giám sát bệnh được chọn. Sau khi thu thập dữ liệu trong 5 năm, đội của Greenstone chốt lại thông tin vào trong các phương trình đo lường độ nhạy của tỷ lệ tử vong với mức ô nhiễm ở hai phía của dòng sông. Kết quả ước tính rằng phơi nhiễm dài ngày tới 100 microgram của các "hạt huyền phù tổng cộng" hay TSPs ( các hạt cứng nhỏ xíu trôi nổi trong không khí như các chất gây ô nhiễm) trên mét khối không khí sẽ làm giảm tuổi thọ của một người trung bình là ba năm. Trong những năm 1981 đến 2000 không khí ở phía Bắc Trung Quốc chứa một lượng trung bình là 551,6 micrograms của TSPs, trái lại ở vùng phía Nam ở một mức trung bình là 354 micrograms. Ở Hoa Kỳ tiêu chuẩn chất lượng không khí cho phép từ năm 1971 đến 1987 là 75 micrograms.
Hầu hết TSPs có thể nhìn thấy được và không phải tất cả gây ra nguy cơ đối với sức khoẻ. "Đặc trưng, hệ thống hô hấp của chúng ta được thiết kế để có thể nắm giữ những gì có trong môi trường" Ken Pinkerton, Giám đốc Đại học California, Davis, Trung tâm sức khoẻ và môi trường nói.Mũi, màng nhầy, thực quản và các tế bào ở trong phổi tất cả lọc các chất lạ nhằm thúc đẩy thở sạch. Một số hạt gây ô nhiễm có thể chôn vùi/lấn át hệ thống bảo vệ tự nhiên của cơ thể, tuy nhiên tình trạng viêm nhiễm ở trong phổi có thể gây ra khó thở, làm trầm trọng thêm tình trạng có trước đây và gây ra chết người.