Sự đề kháng của vi khuẩn là gì ?
Sự đề kháng của vi khuẩn (AMR) là sự đề kháng của một vi sinh vật tới một thuốc kháng vi khuẩn mà lúc đầu là nhạy cảm. Các ví sinh vật đề kháng (chúng bao gồm vi khuẩn, nấm, virus và một vài ký sinh trùng) là có khả năng chịu đựng sự tấn công bởi các thuốc kháng vi sinh vật như là kháng sinh, kháng nấm, kháng virus, và kháng sốt rét. Vì thế sự điều trị chuẩn hóa trở nên không hiệu quả và sự nhiễm trùng tiếp tục tồn tại làm gia tăng nguy cơ lan rộng đến các thuốc khác. Quá trình phát triển các chủng đề kháng là một hiện tượng tự nhiên xảy ra khi vi sinh vật bị phơi nhiễm đến các thuốc kháng vi sinh vật, và các đặc điểm đề kháng có thể trao đổi giữa một vài loài vi khuẩn. Lạm dụng các thuốc kháng vi khuẩn thúc nhanh hiện tượng tự nhiên này. Thói quen khống chế nhiễm trùng nghèo nàn khuyến khích sự lan rộng của AMR
Tại sao đề kháng của vi khuẩn là một vấn đề quan tâm mang tính toàn cầu ?
AMR làm tiêu tan hy vọng
Các nhiễm trùng được gây ra bởi các vi sinh vật đề kháng thường làm thất bại với sự đáp ứng các điều trị chuẩn dẫn đến bệnh kéo dài và nguy cơ tử vong lớn hơn. Tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân bị nhiễm trùng trầm trọng được điều trị ở bệnh viện là gấp khoảng hai lần ở các bệnh nhân với các nhiễm trùng được gây ra bởi các vi khuẩn không kháng thuốc.
AMR ngăn cản phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn
AMR làm giảm hiệu quả của điều trị và như thế bệnh nhân vẫn còn nhiễm khuẩn trong một thời gian dài hơn, làm gia tăng nguy cơ lan rộng vi sinh vật đề kháng tới các thuốc khác.
AMR đe dọa sự trở lại thời kỳ trước kháng sinh
Nhiều bệnh nhiễm khuẩn có nguy cơ không thể điều trị và không thể khống chế, điều này có thể làm dừng đột ngột các tiến bộ đạt được hướng về đích các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) của Liên Hiệp quốc có liên quan đên sức khỏe đặt ra vào năm 2015.
AMR làm gia tăng chi phí chăm sóc y tế
Khi nhiễm khuẩn trở nên đề kháng với các thuốc ưu tiên thì các liệu pháp đắt tiền hơn phải được sử dụng. Thời gian bệnh và thời gian điều trị dài hơn , thông thường ở bệnh viện, làm gia tăng chi phí chăm sóc y tế và gánh nặng về kinh tế đối với gia đình và xã hội.
AMR gây nguy hiểm về thành tựu chăm sóc sức khỏe đối với xã hội
Các thành tựu của y học hiện đại đang có nguy cơ bởi AMR. Không có các thuốc kháng vi khuẩn hiệu quả trong chăm sóc và ngăn ngừa các nhiễm khuẩn thì sự thành công trong điều trị như ghép tạng, hóa trị liệu ung thư và các phẫu thuật lớn có thể bị tổn thương
AMR đe dọa an ninh sức khỏe và gây tổn thương đến thương mại và kinh tế
Sự tăng trưởng thương mại mang tính toàn cầu và du lịch cho phép các vi sinh vật đề kháng có thể lan rộng nhanh chóng đến các quốc gia và các lục địa xa xôi thông qua con người và thực phẩm.
Bức tranh về sự đề kháng của vi khuẩn
Trong năm 2011 ước tính có khoảng 630.000 ca lao đa kháng thuốc (MDR-TB) trong số 12 triệu ca lao trên toàn thế giới. Trên toàn cầu, 3,7% ca lao mới và 20% các ca được điều trị trước đây ước tính là có MDR-TB, với một sự khác nhau đáng kể trong tần suất của MDR-TB giữa các quốc gia. Lao kháng thuốc rộng khắp ( XDR-TB, được định nghĩa như MDR-TB cộng với sự đề kháng tới bất kỳ fluoroquinolone và bất kỳ thuốc tiêm ưu tiên thứ hai) đã được xác định ở 84 quốc gia trên toàn cầu.
 | |
Tỷ lệ lao đa kháng thuốc trong số các ca lao mới, 1994-2010 | Tỷ lệ các ca lao mới có đa kháng thuốc |
 |
Staphylococcus aureus (phân lập tại bệnh viên): tỷ lệ các chủng kháng methicillin, 2007, vùng Mỹ L tinh và Caribe. |
Một tỷ lệ cao nhiễm khuẩn mắc phải tại bệnh viện là được gây ra bởi các vi khuẩn đề kháng cao như chủng tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus) đề kháng đến methicillin (MRSA) và các chủng vi khuẩn gram âm đưởng ruột đa kháng thuốc vancomycinor
Ciprofloxacin là kháng sinh duy nhất hiện nay được khuyến cáo bởi WHO cho việc điều trị ỉa chảy có máu do vi khuẩn lỵ bây giờ sự đề kháng lan rộng đã phát triển tới các kháng sinh có hiệu quả trước đây. Nhưng tỷ lệ gia tăng sự đề kháng nhanh chóng tới ciprofloxacin làm giảm sự chọn lựa về độ an toàn và hiệu quả điều trị trực khuẩn lỵ, đặc biệt ở trẻ em. AMR đang trở nên là một vấn đề nghiêm trọng trong điều trị lậu cầu khuẩn (được gây ra bởi Neisseria gonorrhoeae), bao gồm cephalosporins bằng đường uống thế hệ mới nhất và đang gia tăng về tỷ lệ trên thế giới. Nhiễm lậu cầu khuẩn không thể điều trị sẽ dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ bệnh và tử vong và như thế làm đảo ngược các thành quả đạt được trong phòng chống sự nhiễm khuẩn được lan truyền bằng đường tình dục này. Các cơ chế đề kháng mới, như là các enzymes được sản xuất bởi vi khuẩn mà nó phá hủy các kháng sinh thế hệ mới , đã nổi lên ở các vi khuẩn gram âm và có sự lan rộng nhanh chóng đến nhiều quốc gia. Điều này có thể đáp trả các thuốc kháng sinh mạnhkhông có hiệu quả, mà thường là vũ khí cuối cùng chống lại các vi khuẩn đa kháng thuốc. Cơ chế đề kháng mới này được bắt gặp trong mầm bệnh thông thường ở người (ví dụ Escherichiaa coli) mà nó thường gây ra các nhiễm khuẩn phổ biến như là nhiễm khuẩn đường tiết niệu. Sự đề kháng với các thuốc sốt rét thế hệ trước như là chloroquine và sulfadoxine-pyrimethamine đang lan rộng trong hầu hết các quốc gia lưu hành sốt rét. Plasmodium falciparum kháng tới artemisinins đang nổi lên ở Đông Nam Á, sự nhiễm khuẩn này chứng tỏ sự sạch trùng chậm ( nghĩa là ký sinh trùng vẫn còn trong máu lâu hơn) sau khi bắt đầu điều trị và làm gia tăng tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong.
 |
Tỷ lệ bệnh nhân với ký sinh trùng P.falciparum trong máu vào ngày thứ ba sau khi điều trị liệu pháp với một dẫn xuất artemisinin (ACTs) 2006-2010. |
Sự đề kháng đang là mối quan tâm mới nổi trong điều trị nhiễm HIV sau khi mở rộng nhanh chóng trong tiếp cận các thuốc kháng virus trong những năm gần đây; các cuộc điều tra tầm quốc gia đang được thực hiện để phát hiện và giám sát sự đề kháng. Bởi vì sự tiến hóa tự nhiên của cúm liên tục , sự đề kháng với các thuốc kháng virus cũng xuất hiên liên tục. Vào năm 2012, hầu như tất cả các virus A lưu hành ở người là đề kháng tới amantadine và rimantadine trong khi tần suất đề kháng tới oseltamivir ức chế neuraminidase vẫn còn thấp (1-2%) và không có sự đề kháng tới zanamivir được phát hiện. Sự nhạy cảm với các thuốc kháng virus được giám sát thông qua hệ thống đáp ứng và giám sát toàn cầu của WHO.
Điều gì thúc đẩy sự xuất hiện và lan rộng sự đề kháng của vi khuẩn ?
Sự phát triển của AMR là một hiện tượng tự nhiên. Tuy nhiê, một số hành động của con người thực sự thúc đẩy sự xuất hiện và sự lan rộng của AMR. AMR là một vấn đề phức tạp được tạo ra bởi nhiều yếu tố kết nối vì thế các biện pháp đơn lẽ, riêng biệt có ít tác động và các hành động hợp tác là được đòi hỏi. Các yếu tố dưới đây thúc đẩy sự xuất hiện và lan rộng của AMR bao gồm: thiếu một sự đáp ứng toàn diện và hợp tác; ự yếu kém hay vắng mặt các hệ thống theo dõi và giám sát kháng thuốc của vi khuẩn; hệ thống không đầy đủ để đảm bảo chất lượng vànguồn cung cấp thuốc bị gián đoạn; sử dụng thuốc kháng vi khuẩn không thích hợp, bao gồm nghề chăn nuôi; thông lệ kiểm soát và phòng chống nhiễm trùng nghèo nàn; công cụ liệu pháp, dự phòng và chẩn đoán không đầy đủ.
Đáp ứng của Tổ chức Y tế thế giới
WHO đang hướng dẫn các đáp ứng tới AMR thông qua: khuyến khích các hành động hợp tác bởi tất cả các bên liên quan; tạo ra hướng dẫn chính sách, hỗ trợ sự giám sát, trợ giúp về mặt kỹ thuật, huy động kiến thức và các đối tác; tăng cường sự đổi mới , nghiên cứu và phát triển. WHO kêu gọi tất cả các bên liên quan quan trọng , bao gồm các nhà làm chính sách và các nhà kế hoach, công cộng và bệnh nhân, các nhà thực hành và các người kê đơn, các dược sỹ và người phân phối, và ngành công nghiệp dượcthực hiện hành động và trách nhiệm trong cuộc chiến đấu chống lại sự đề kháng của vi khuẩn.