Ngày 30/3/2015. Oxford University Press (OUP). Thuốc trừ sâu trong trái cây và rau quả có liên quan đến chất lượng tinh dịch (Pesticides in fruit and vegetables linked to semen quality). Nghiên cứu đầu tiên điều tra về mối liên quan giữa việc ăn trái cây và rau có chứa dư lượng thuốc trừ sâu và chất lượng tinh dịch của đàn ông đã cho thấy một sự liên kết về số lượng tinh trùng thấp hơn và tỷ lệ tinh trùng hình thành một cách bình thường.
Theo một nghiên cứu mới bởi các nhà nghiên cứu tại Đại học y tế công cộng Harvard, những người đàn ông ăn trái cây và rau quả có hàm lượng dư lượng thuốc trừ sâu cao hơn như dâu tây, rau bina và ớt - có số lượng tinh trùng thấp hơn và một tỷ lệ thấp hơn của tinh trùng bình thường so với những người ăn các loại thực phẩm được sản xuất với mức dư lượng thấp hơn. Cuộc nghiên cứu, được công bố trực tuyến vào ngày hôm nay (thứ ba) trong Sức khỏe sinh sản (Human Reproduction) cho thấy rằng những người đàn ông ăn số lượng trái cây và rau quả nhiều nhất với mức độ cao của dư lượng thuốc trừ sâu đã có một số lượng tinh trùng thấp hơn 49% và có một tỷ lệtinh trùng hình thành bình thường thấp hơn 32% so với những người đàn ông tiêu thụ số lượng trái cây và rau ít nhất. Một bài xã luận đi kèm cho biết phát hiện này có ý nghĩa quan trọng đối với sức khỏe con người, tuy nhiên nghiên cứu ở 155 người đàn ông về mặt tổng thể đã cho thấy rằng tổng khối lượng trái cây và rau quả được tiêu thụ là không liên quan đến những thay đổi trong bất kỳ phép đo nào về chất lượng tinh dịch trong toàn bộ nhóm.
Phó giáo sư về dinh dưỡng và dịch tễ học tại Trường Y tế công cộng Harvard TH Chan ở Boston (Mỹ), Jorge Chavarro cho biết: "Những phát hiện này không nên không khuyến khích việc tiêu thụ trái cây và rau quả nói chung Trong thực tế, chúng tôi thấy rằng tổng lượng trái cây và rau quả tiêu thụ là hoàn toàn không liên quan đến chất lượng tinh dịch.. Điều này cho thấy rằng việc thực hiện các chiến lược đặc biệt nhắm vào việc tránh dư lượng thuốc trừ sâu, chẳng hạn như tiêu thụ các sản phẩm trồng mang tính hữu cơ hoặc tránh các sản phẩm được biết đến có một lượng lớn dư lượng thuốc trừ sâu, có thể là cách thực hiện". Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng phơi nhiễm với các loại thuốc trừ sâu có thể có ảnh hưởng đến chất lượng tinh dịch, nhưng cho đến nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của thuốc trừ sâu trong chế độ ăn uống. GS Chavarro, học trò của Tiến sĩ Yu-Han Chiu và các đồng nghiệp đã phân tích 338 mẫu tinh dịch của 155 người đàn ông tham gia một trung tâm sinh sản từ năm 2007-2012 như là một phần của nghiên cứu thuần tập tương lai về "Môi trường và Sức khỏe sinh sản" (Environment and Reproductive Health_EARTH), những người đàn ông hội đủ điều kiện để nghiên cứu nếu họ ở độ tuổi từ 18-55, đã không có thắt ống dẫn tinh, và là một phần của một cặp đôi có kế hoạch sử dụng trứng và tinh trùng của mình để điều trị khả năng sinh sản.
Chế độ ăn uống của những người đàn ông đã được đánh giá bằng một câu hỏi về số lần sử dụng thực phẩm, và họ cũng được hỏi về mức độ thường xuyên, trung bình là họ ăn bao nhiêu phần trái cây và rau quả, sử dụng tiêu chuẩn kích thước chuẩn như một quả táo, hoặc một nửa quả bơ. Các trái cây và rau quả được phân loại như là có dự lượng thuốc trừ sâu cao, trung bình hay thấp trên cơ sở dữ liệu từ chương trình dữ liệu thuốc trừ sâu của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (United States Department of Agriculture Pesticide Data Program) hàng năm. Trái cây hoặc rau quả có dư lượng thuốc trừ sâu thấp bao gồm đậu Hà Lan, đậu, bưởi và củ hành. Những loại thực phẩm có dư lượng thuốc trừ sâu cao bao gồm ớt, rau bina, dâu tây, táo và lê. Những dữ liệu này đo đếm việc thực hành thông thường trong chế biến thực phẩm, chẳng hạn như liệu trái cây và rau quả đã được bóc vỏ và rửa sạch hay không [1].
Các nhà nghiên cứu chia những người đàn ông thành bốn nhóm khác nhau, từ những người ăn với số lượng lớn nhất trái cây và rau qủa có dư lượng thuốc trừ sâu (1,5 phần ăn hoặc hơn trong một ngày) với những người ăn với số lượng ít nhất (ít hơn một nửa khẩu phần mỗi ngày). Họ cũng tìm kiếm những người đàn ông ăn trái cây và rau quả có dư lượng thuốc trừ sâu thấp đến trung bình. Nhóm những người đàn ông ăn cao nhất của trái cây và rau quả có thuốc trừ sâu nặng có một số lượng tinh trùng trung bình là 86 triệu tinh trùng mỗi lần xuất tinh so với những người đàn ông ăn ít nhất là những người trung bình có 171 triệu tinh trùng mỗi lần xuất tinh - giảm 49%. Tỷ lệ tinh trùng hình thành một cách bình thường trung bình là 7,5% ở nam giới trong nhóm với lượng ăn thấp nhất và 5,1% ở những người đàn ông có lượng ăn cao nhất - giảm tương đối là 32%. Không có sự khác biệt được bắt gặp giữa những người đàn ông trong bốn nhóm tiêu thụ trái cây và rau quả có dư lượng thuốc trừ sâu thấp đến trung bình. Trong thực tế, có một xu hướng quan trọng hướng tới việc có một tỷ lệ phần trăm cao hơn của tinh trùng có hình dạng bình thường ở những người đàn ông tiêu thụ trái cây và rau quả có dư lượng thuốc trừ sâu nhất thấp - một sự gia tăng tương đối là 37% từ 5,7% đến 7,8%. [2].
Các tác giả viết trong bài báo của mình: "Theo hiểu biết của chúng tôi, đây là báo cáo đầu tiên về việc tiêu thụ trái cây và rau quả với mức độ cao của dư lượng thuốc trừ sâu liên quan đến chất lượng tinh dịch." Họ tiếp tục: "Những phát hiện này cho thấy việc phơi nhiễm với thuốc trừ sâu được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp thông qua chế độ ăn uống có thể là đủ để ảnh hưởng đến sự sinh tinh ở con người". Tuy nhiên, họ chỉ ra rằng có một số lượng hạn chế của nghiên cứu và nghiên cứu thêm là cần thiết. "Nghiên cứu về những người đàn ông ở các cơ sở lâm sàng về sinh sản như thế này là quá đại diện cho người đàn ông với vấn đề chất lượng tinh trùng. Trong nghiên cứu của chúng tôi gần như một nửa của những người đàn ông đã có một hoặc nhiều hơn các thông số tinh dịch dưới mức tham chiếu của WHO. Bởi vì điều này, nó không có thể cho biết liệu các kết quả của chúng tôi có thể được khái quát hóa cho nam giới trong dân số nói chung hay không. Đặc biệt, thật là khó khăn để có được một bức tranh chính xác mức độ ảnh hưởng lớn đến thế nào trong dân số nói chung", Giáo sư Chavarro cho biết. Ngoài ra, chế độ ăn uống chỉ được đánh giá một lần và có thể thay đổi theo thời gian. Các nhà nghiên cứu đã không có thông tin về việc có hay không các thực phẩm được trồng thông thường hay hữu cơ, và sự phơi nhiễm với thuốc trừ sâu có thể đã được phân loại sai bởi vì nó không thể đo được chính xác cho mỗi con người.
Trong một bài xã luận đi kèm, Tiến sĩ Hagai Levine, viếng thăm nhà khoa học, từ Đại học Hebrew-Hadassah, Israel, và Giáo sư Shanna Swan, Giáo sư Y tế dự phòng, cả hai đều đang ở trường Y khoa Icahn tại Mount Sinai, New York (Mỹ) viết :. "Mặc dù kích thước mẫu tương đối nhỏ và đánh giá tiếp xúc bị hạn chế, tuy nhiên bài báo là một trường hợp thuyết phục rằng việc phơi nhiễm với thuốc trừ sâu trong chế độ ăn uống có thể ảnh hưởng xấu đến chất lượng tinh dịch. Trong khi phát hiện này sẽ cần phải được nhân rộng ở các nơi khác và các quần thể khác thì nó vẫn mang ý nghĩa quan trọng về sức khỏe". Họ chỉ ra rằng tinh trùng kém chất lượng "là nguyên nhân hàng đầu của những nỗ lực không thành công để mang thai và là một trong những vấn đề y tế phổ biến nhất ở nam giới trẻ ... nó đã được đề xuất như là một dấu hiệu quan trọng của sức khỏe nam giới, dự đoán tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ... nó là nhạy cảm với phơi nhiễm môi trường, bao gồm cả hóa chất gây ảnh hưởng đến nội tiết, nhiệt và các yếu tố liên quan đến lối sống, chẳng hạn như chế độ ăn uống ... do đó nó có thể cung cấp một chỉ dấu nhạy cảm về các tác động của môi trường hiện đại lên sức khỏe con người".
[1] Sử dụng thuốc trừ sâu khác nhau giữa các quốc gia, nhưng ở Mỹ những hóa chất sử dụng cho trái cây và rau quả bao gồm Atrazine, Malathion, Chlorpyrifos và Carbendazim (Pesticide use varies from country to country, but in the USA those used on fruit and vegetables include Atrazine, Malathion, Chlorpyrifos and Carbendazim).
[2] Tỷ lệ tinh trùng hình thành một cách bình thường nói chung là thấp, với WHO đưa ra ít hơn 4% như mức giới hạn tham khảo thấp hơn (Percentages of normally formed sperm are generally low, with the WHO giving less than 4% as the lower reference limit).