Ngày 19/4/2017. Bệnh nhân ung thư não điều trị bằng thuốc sốt rét được cải thiện rõ rệt (Brain cancer patient treated with malaria drug shows dramatic improvement). Theo một nghiên cứu phát hành trên Tạp chí eLife mô tả sự kết hợp mới các loại thuốc giúp ổn định tình hình bệnh của Rosendahl 26 tuổi và kéo dài thời gian sống của cô khi các bác sĩ cho rằng cô chỉ tồn tại vài tháng nữa bởi căn bệnh u thư não.
Sau khi bệnh ung thư não của cô biểu hiện kháng với liệu pháp hóa học và sau đó là với các liệu pháp điều trị trúng đích (targeted treatments), các bác sĩ của Lisa Rosendahl-26 tuổi cho biết cô chỉ còn sống được vài tháng nữa thôi. Giờ đây, sự kết hợp mới các loại thuốc giúp ổn định tình hình bệnh của Rosendahl và thời gian cuộc sống của cô bằng cách đưa thuốc chống sốt rét chloroquine vào trong trị liệu của cô đã ngăn chặn một quá trình thiết yếu mà các tế bào ung thư và đang sử dụng để kháng với liệu pháp hóa học làm cho bệnh ung thư của cô tái nhạy (re-sensitize) đối với liệp pháp điều trị trúng đích mà trước đó biện pháp này đã trở nên vô ích. Cùng với Rosendahl, 2 bệnh nhân ung thư não khác cũng đã được điều trị bằng việc kết hợp thuốc và cả hai người này đều cho thấy sự cải thiện rõ rệt, tương tự. Lisa cho biết: “Khi tôi 21 tuổi, họ đã phát hiện một khối u lớn trong não của tôi và tôi đã phẫu thuật loại bỏ nó ngay lúc đó. Họ đã xét nghiệm ung thư nó và nó xuất hiện dương tính trở lại”. Tác giả chính của nghiên cứu Bs. Jean Mulcahy-Levy, nghiên cứu viên tại Trung tâm Ung thư Đại học Colorado và là bác sĩ chuyên khoa ung thư nhi tại Bệnh viện Nhi Colorado cho biết: “Lisa là một cô gái trẻ với niềm khao khát sống mạnh mẽ nhưng đó là một u nguyên bào thần kinh đệm tăng triển (aggressive glioblastoma), rủi ro cao và khi chúng tôi bắt đầu công trình nghiên cứu này thì cô đã thử mọi cách điều trị có thể. Bốn tuần sau, cô đã có thể đứng dậy và sử dụng cánh tay, chân và bàn tay linh hoạt hơn”.
Khía cạnh khoa học đằng sau việc sử dụng loại thuốc sốt rét-chloroquine ngoài hướng dẫn (off-label), đầy cách tân này chủ yếu được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm của TS. Andrew Thorburn, phó giám đốc Trung tâm Ung thư CU, nơi Mulcahy-Levy đã làm việc với vai trò là một nghiên cứu sinh sau tiến sĩ, bắt đầu từ năm 2009. Phòng thí nghiệm của Thorburn đã nghiên cứu một quá trình hình thành tế bào gọi là tự thực bào (autophagy). Từ tiếng Hy Lạp nghĩa là “tự ăn chính mình” (to eat oneself), autophagy là một quá trình “tái chế tế bào” (cellular recycling) trong đó các vi cơ quan tế bào gọi là các thể tự thực bào (autophagosomes: các túi chứa tế bào chất và bào quan thoái hóa) đóng gói các chất thừa hoặc nguy hiểm và chuyển nó tới các lysosome của tế bào để tiêu hủy. Thực tế, người đầu tiên mô tả tự thực bào-Yoshinori Ohsumi đã đạt giải Nobel Sinh lý và Y khoa (Nobel Prize in Medicine or Physiology) năm 2016 vì khám phá này. Giống như việc tháo lắp một bộ đồ chơi lắp ghép Lego, tự thực bào tháo dỡ những thành phần tế bào không cần thiết và chuyển chúng thành các khối năng lượng hoặc protein tái sử dụng để sống sót trong thời gian cạn kiệt năng lượng hoặc giữ mình an toàn trước các chất độc hại và mầm bệnh (và nhiều mục đích khác nữa) nhưng điều không may là, một số loại ung thư lợi dụng tự thực bào để giúp chúng an toàn trước các liệu pháp điều trị. Mulcahy-Levy cho biết: “Các nghiên cứu ban đầu trong phòng thí nghiệm của tôi đã làm tôi rất thất vọng, tôi đã cảm thấy tự thực bào không có nhiều tác động ức chế các khối u não trong nhi khoa nhưng sau đó chúng tôi phát hiện rằng nó đã không có tác động về mặt toàn diện có những nhóm khối u nhỏ mà trong đó sự ức chế đã có hiệu quả cao”. Công trình nghiên cứu của Mulcahy-Levy với Thorburn (và nhiều người khác nữa) cho thấy những ung thư với đột biến gen BRAF, đặc biệt những ung thư có đột biến gọi là BRAFV600E phụ thuộc vào tự thực bào. Bên cạnh ung thư tế bào hắc tố (melanoma), ung thư có đột biến này được phát hiện đầu tiên, u nguyên bào thần kinh đệm dạng biểu mô (epithelioid glioblastomas) đặc biệt có khả năng cao mang đột biến BRAFV600E. Với phát hiện mới này, Mulcahy-Levy trở thành một mối liên hệ thiết yếu giữa phòng thí nghiệm khoa học cơ bản của Thorburn với công tác thực hành lâm sàng của bác sĩ chuyên khoa ung thư Nicholas Foreman, nghiên cứu viên của Trung tâm Ung thư CU và nhà sáng lập ban ung thư thần kinh hoc nhi khoa tại Bệnh viện Nhi Colorado, người đã quản lý việc chăm sóc cho Lisa.
Sau nhiều cuộc phẫu thuật, các liệu pháp điều trị bức xạ và hóa học, Lisa đã bắt đầu dùng thuốc vermurafenib, ban đầu được phát triển để điều trị ung thư tế bào hắc tố BRAF+ và hiện đang được thử nghiệm trong điều trị các khối u não nhi khoa. Tình trạng của Lisa sau khi dùng thuốc cũng điển hình giống những bệnh nhân bị ung thư BRAF+ được điều trị với các thuốc ức chế BRAF như là vemurafenib-đó là sau một thời gian được kiểm soát, ung thư phát triển các cơ chế gen khác để tìm cách phát triển và sống sót và có thể át đi loại thuốc ban đầu. Vào lúc đó, một chiến lược đầy hứa hẹn đó là dự đoán và/hoặc thử nghiệm các đột biến gen mới phụ thuộc vào tự thực bào và sau đó điều trị bất kỳ đột biến gen mới nào với một liệu pháp điều trị trúng đích khác. Ví dụ, nhiều loại ung thư BRAF+ được điều trị với các chất ức chế BRAF phát triển những biến đổi KRAS, NRAS, EGFR hoặc PTEN có thể giúp chúng kháng thuốc và các liệu pháp điều trị kéo dài sự sống bằng cách nhắm vào nhiều trong số các “lối thoát” này. Tuy nhiên, một số loại ung thư phát triển nhiều cơ chế kháng và những loại khác tiến triển nhanh chóng tới mức rất khó có thể đón đầu những thay đổi này của chúng bằng liệu pháp điều trị trúng đích tiếp theo và đúng đắn. Mulcahy-Levy cho biết: “Việc đó giống như là câu chuyện cậu bé đưa ngón tay của mình vào chặn các lỗ rỉ nước của con đập nhưng cuối cùng thì bạn không thể chặn tất cả các lỗ rỉ nước”. Thay vì cứ phải xử lý hết đột biến này đến đột biến khác, nhóm nghiên cứu quyết định tìm cách khám phá các cơ chế của tế bào thay vì cứ bám chặt lấy một chuỗi những đột biến không bao giờ chấm dứt
Nghiên cứu viết: “Thí nghiệm lâm sàng và tiền lâm sàng luôn luôn cho thấy rằng các tế bào khối u nhanh chóng mở ra những con đường xung quanh việc ức chế các con đường kinase đột biến như con đường BRAF được nhắm tới ở đây. Tuy nhiên, dựa trên những kết quả, chúng tôi cho rằng bằng việc nhắm đến toàn bộ một quá trình hình thành tế bào đơn độc, tức là tự thực bào, mà chính các tế bào khối u này phụ thuộc vào, có thể khả thi trong việc chiến thắng khả năng kháng của nó và do đó tái thiết lập sự kiểm soát khối u hiệu quả”. Nói cách khác, khi biết rằng khối u của Lisa Rosendahl dương tính với đột biến BRAFV600E, và điều đó cho thấy khối u này cũng phụ thuộc đặc biệt vào tự thực bào – và cũng biết rằng các lựa chọn truyền thống và thậm chí là các thử nghiệm lâm sàng là không có sẵn-nhóm này đã làm việc với Rosendahl và cha cô, Greg, để thuyết phục họ cho phép đưa thuốc ức chế tự thực bào chloroquine vào liệu pháp điều trị cho cô. Greg Rosendahl cho biết: “Vào tháng 9/2015, các loại thuốc điều trị trúng đích trước đó không còn tác dụng nữa. Các bác sĩ nói Lisa chỉ còn chưa đến 12 tháng để sống, chúng tôi đã đưa tất cả anh em họ của chúng tôi tới Alaska giống như một chuyến đi cuối cùng, sau đó họ đưa ra liệu pháp kết hợp mới này với chloroquine”. Vemurafenib ban đầu đã giúp kéo Lisa thoát khỏi bờ vực cái chết, sau đó bệnh ung thư của cô đã học cách sử dụng tự thực bào để mang nó quay trở lại từ bờ vực. Giờ đây với chloroquine ức chế tự thực bào, vemurafenib lại bắt đầu có tác dụng trở lại”. Lisa cho biết: “Khối u của tôi đã nhỏ đi nhiều, và điều đó thật tuyệt vời đối với tôi”. Mulcahy-Levy cho biết: “Chúng tôi đã điều trị 3 bệnh nhân với liệu pháp kết hợp thuốc và cả ba người này đều có những chuyển biến tốt. Điều đó thật tuyệt vời-đôi khi bạn không thể chứng kiến sự đáp ứng tốt như vậy đối với một liệu pháp điều trị thử nghiệm. Cùng với Lisa, một bệnh nhân khác cũng đang được điều trị thuốc kết hợp hai năm rưỡi. Cô ấy đang học đại học, nổi trội, và đang phát triển thành một con người trẻ tuổi tuyệt vời, điều sẽ chẳng thể xảy ra nếu chúng tôi không điều trị cho cô ấy bằng liệu pháp này”.
Lisa gần đây đã mua một chiếc ghế lăn mới để cô có nhiều thời gian hơn tại trung tâm thương mại, cô còn đăng ký xin một miếng dán hình người tàn tật để dán lên xe để cô có thể dễ dàng đi tới một công viên gần đó có các xe đồ ăn. Mulcahy-Levy cho biết: “Cô muốn ra ngoài và làm nhiều việc hơn. Cô tiếp tục có được những thứ mà cô cảm nhận đó là một cuộc sống chất lượng tốt”. Việc nghiên cứu và đi kèm với các kết quả này trên các bệnh nhân cho thấy rằng việc ức chế tự thực bào kèm với liệu pháp điều trị trúng đích đã có những lợi ích đối với u nguyên bào thần kinh đệm và đối với riêng ung thư BRAF+. Vì chloroquine đã được FDA phê chuẩn như là một loại thuốc an toàn và hữu hiệu (và không đắt đỏ) điều trị sốt rét, nghiên cứu này chỉ ra rằng nó có thể “thử nghiệm nhanh” (quickly test) hiệu lực của việc đưa quá trình ức chế tự thực bào này vào nhiều trường hợp u nguyên bào thần kinh đệm BRAF+ hơn và các bệnh nhân u não khác, cũng có thể mở rộng điều trị sang các bệnh và các đột biến phù hợp khác. Như các nghiên cứu của Mulcahy-Levy cho thấy, nhiều loại ung thư không phụ thuộc vào tự thực bào nhưng cùng lúc thì cũng có nhiều loại ung thư có phụ thuộc vào tự thực bào. Vì đã có một loại thuốc an toàn và đơn giản có thể ức chế tự thực bào, thời gian giữa việc khám phá ra một loại ung thư phụ thuộc vào tự thực bào và khả năng đưa chloroquine ức chế tự thực bào vào lộ trình điều trị đối với ung thư này có thể rất ngắn. Mulcahy-Levy cho biết: “Tôi thực sự muốn có thể đưa ra liệu pháp trị liệu cho bệnh nhân, tôi thích được nói rằng ‘liệu pháp này sẽ thực sự quan trọng đối với bạn’ và không cần thiết phải sử dụng cùng một liệu pháp đối với một bệnh nhân khác mà bệnh ung thư của người đó phát triển từ một đột biến gen khác chính là định nghĩa về sự chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm-thiết kế phác đồ điều trị dựa trên thông tin của chính bệnh nhân đó, không chỉ đối với u nguyên bào thần kinh đệm mà còn là một đột biến cụ thể nào đó và không chỉ là đột biến mà là một mô hình cụ thể các phép điều trị và kháng thuốc trước đó”. Lisa Rosendahl cho biết: “Tôi cảm thấy thực sự may mắn khi là người đầu tiên được điều trị theo cách này. Hy vọng nó sẽ có tác dụng với tôi và với nhiều người hơn nữa”.
Nguồn:http://www.ucdenver.edu/academics/colleges/medicalschool/centers/cancercenter/Pages/CancerCenter.aspx