Theo thông tin ghi nhận, từ tháng 6 đến đầu tháng 11/2015 dịch bệnh bạch hầu xuất hiện tại 6/17 tỉnh, thành phố của Lào đã làm cho 11 bệnh nhân tử vong và đang có nguy cơ xâm nhập vào nội địa nước ta từ các tỉnh biên giới giáp ranh với Lào. Vì vậy cần có biện pháp kiểm soát và phòng chống tốt để chủ động đề phòng bệnh bạch hầu ngoại nhập.
Thực trạng tình hình bệnh bạch hầu
Tại nước ta trước đây bệnh bạch hầu đã xuất hiện ở hầu hết các tỉnh, thành phố nhưng sau khi triển khai thực hiện việc tiêm vắc-xin phòng bệnh trong chương trình tiêm chủng mở rộng thì bệnh bạch hầu cơ bản được khống chế. Tuy nhiên ở những địa phương có tỷ lệ tiêm chủng vắc-xin phòng bệnh thấp, bệnh bạch hầu vẫn hiện diện như năm 2015 một số trường hợp bệnh đã ghi nhận ở các thôn bản của huyện K’Bang thuộc tỉnh Gia Lai và huyện Phước Sơn thuộc tỉnh Quảng Nam. Ngoài nguyên nhân do tiêm chủng vắc-xin phòng bệnh đạt tỷ lệ thấp ở vùng sâu, vùng xa, miền núi và biên giới; hiện nay trước tình hình bệnh bạch hầu phát triển và bùng phát thành dịch tại Lào nên rất dễ có nguy cơ mầm bệnh xâm nhập vào nội địa qua sự giao lưu, đi lại của một bộ phận người dân ở các thôn bản giáp đường biên giới. Nếu không có sự kiểm soát tốt, bệnh sẽ phát tán và lây lan đến các nơi khác với hậu quả khó lường. Thực tế tại tỉnh Quảng Nam trong tháng 7/2015 xuất hiện ổ dịch bệnh bạch hầu đã làm cho 6 bệnh nhân tử vong đã được cảnh báo. Bệnh bạch hầu nội địa trên thực tế vẫn còn xuất hiện rải rác ở một số vùng có tỷ lệ tiêm chủng vắc-xin phòng bệnh thấp. Bên cạnh đó bệnh bạch hầu ngoại nhập từ Lào có khả năng xâm nhập vào nội địa qua các địa phương có đường biên giới giáp ranh cũng sẽ là mối nguy cơ tạo điều kiện thuận lợi để bệnh phát tán, lây lan và bùng phát dịch. Vì vậy phải cần chủ động kiểm soát, giám sát và xử trí tốt vấn đề này.
Đặc điểm của bệnh bạch hầu
Bạch hầu là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, có khả năng lây lan và bùng phát thành dịch do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra. Bệnh cảnh lâm sàng thường gặp có nhiều thể khác nhau gồm bạch hầu thông thường, bạch hầu họng-thanh quản (Croup) và bạch hầu ác tính; bệnh hay xảy ra ở trẻ em nhưng cũng có thể thấy ở người lớn nếu chưa có miễn dịch. Mầm bệnh thường hiện diện trong các chất dịch tiết từ niêm mạc mũi họng của bệnh nhân và người lành mang vi khuẩn. Chúng lây nhiễm qua đường hô hấp hoặc qua tiếp xúc trực tiếp với da, niêm mạc từ chất dịch tiết khi người bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn ho, hắt hơi có các giọt bắn mang mầm bệnh; đặc biệt bệnh lây lan nhanh ở những chỗ đông người hoặc nơi có điều kiện vệ sinh không bảo đảm. Sau khi xâm nhập qua da và niêm mạc, vi khuẩn gây ra các giả mạc dai tại chỗ bị nhiễm khuẩn thường là ở hầu họng, thanh quản; có thể là ở mũi, mắt, da và cơ quan sinh dục... Từ đó vi khuẩn tiết ra ngoại độc tố đi vào máu gây nhiễm độc cơ tim, thận, các dây thần kinh trung ương và ngoại biên. Trong những trường hợp nặng, bệnh có thể gây nên các biến chứng trầm trọng và dẫn đến tử vong.

Bệnh bạch hầu có khả năng ngoại nhập, cần tăng cường giám sát, phát hiện và xử trí (ảnh minh họa)
Bệnh bạch hầu thể thông thường và thể họng - thanh quản gây triệu chứng sốt nhẹ từ 38 đến 38,5oC, sổ mũi nước, niêm mạc họng đỏ; xuất hiện những chấm trắng mờ và mỏng, hạch dưới hàm sưng to và đau. Sau 2 - 3 ngày, người bệnh cảm thấy khó nuốt, đau cổ họng, mệt mỏi. Trong họng xuất hiện màng trắng ngà, dính chặt vào lớp thượng bì bên dưới, khi bong tróc rất dễ chảy máu; màng giả này lan nhanh ra một hoặc hai bên họng. Bệnh bạch hầu ác tính xuất hiện sớm từ 1 - 2 ngày đầu bệnh khởi phát với những dấu hiệu đột ngột như sốt cao từ 39 đến 40oC; người bệnh mệt lả, da xanh tái, nôn, nuốt đau, màng giả lan nhanh ra hai bên họng, hơi thở hôi, hạch cổ sưng to, xuất huyết ở nhiều nơi, mạch nhanh và bệnh nhân có thể bị tử vong ngay. Trong thực tế biến chứng viêm cơ tim thường gặp; ngoài ra còn có các biến chứng khác về tim mạch, thần kinh, thận và hô hấp... cũng cần được lưu ý. Theo các nhà khoa học, tỷ lệ tử vong ghi nhận được ở trong các vụ dịch bệnh bạch hầu xảy ra chiếm khoảng từ 5 đến 10%.
Chẩn đoán xác định bệnh bạch hầu khi phát hiện bệnh nhân có lớp giả mạc trắng bóng bám chặt vào niêm mạc; có tính chất dai, dính, lan nhanh ở vùng hầu họng; lấy bệnh phẩm bằng cách ngoáy ngoài rìa giả mạc để nuôi cấy sẽ phát hiện được vi khuẩn bạch hầu. Khi đã chẩn đoán xác định hoặc có dấu hiệu nghi ngờ người bệnh mắc bệnh bạch hầu, cần phải đưa ngay bệnh nhân đến cơ sở y tế để quản lý điều trị và chăm sóc, tránh lây lan cho gia đình và cộng đồng người dân ở chung quanh. Việc điều trị nên thực hiện sớm bằng huyết thanh kháng độc tố bạch hầu SAD (serum anti-diptheriae) và các loại kháng sinh như penicillin hoặc kháng sinh thuộc nhóm macrolides.
Phòng bệnh bạch hầu bằng tiêm vắc-xin
Biện pháp phòng bệnh bạch hầu có hiệu quả nhất là sử dụng các loại vắc-xin có liên quan. Vắc-xin phòng bệnh bạch hầu thường được sản xuất kết hợp với các loại vắc-xin phòng bệnh khác như: Vắc-xin bạch hầu - ho gà - uốn ván DTP (diphtheria-tetanus-pertussis) gồm bạch hầu, uốn ván, ho gà với toàn vi khuẩn DTPw (diphtheria-tetanus-whole cell pertussis vaccine) và bạch hầu, uốn ván, ho gà không có tế bào vi khuẩn DTPa (diphtheria-tenanus-acellular pertussis vaccine) có tên chung là vắc-xin DTP và tên thương mại là vắc-xin bạch hầu - ho gà - uốn ván hấp thụ do Việt Nam sản xuất; thời gian bảo vệ từ 3 - 5 năm. Ngoài ra còn có các loại vắc-xin khác như: Vắc-xin Tetracoq gồm bạch hầu - ho gà - uốn ván - bại liệt do Pháp sản xuất; thời gian bảo vệ từ 3 - 4 năm. Vắc-xin Tritanrix-HB gồm bạch hầu - ho gà - uốn ván - viêm gan B do Bỉ sản xuất; thời gian bảo vệ được nhiều năm. Vắc-xin DTVAX gồm bạch hầu - uốn ván hấp phụ do Pháp sản xuất; thời gian bảo vệ 5 năm... Chương trình tiêm chủng mở rộng tại nước ta thực hiện từ năm 1981 mặc dù trước đó việc tiêm chủng vắc-xin phòng bệnh đã triển khai tại các vùng đô thị và đồng bằng. Lúc đầu vắc-xin phòng bệnh được tiến hành bảo vệ đối với 6 loại bệnh gồm bạch hầu, ho gà, uốn ván, lao, sởi và bại liệt; đến năm 1995 các loại vắc-xin phòng bệnh khác cũng được xem xét triển khai thực hiện thêm trong chương trình tiêm chủng mở rộng như viêm gan B, viêm não Nhật Bản, tả, thương hàn... Trong giai đoạn chưa triển khai chương trình tiêm chủng mở rộng, bệnh bạch hầu cũng như một số bệnh khác đã xảy ra ở hầu hết các tỉnh, thành phố của nước ta nhưng sau khi vắc-xin phòng bệnh bạch hầu được đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng thì bệnh bạch hầu đã cơ bản được khống chế cùng với một số bệnh khác do sử dụng các loại vắc-xin kết hợp đã nêu ở trên. Đến năm 2010, loại vắc-xin Quinvaxem kết hợp phòng ngừa 5 loại bệnh gồm bạch hầu, ho gà, uốn ván, viêm gan B, bệnh do nhiễm Hib (hemophilus influenzae type b) thường gọi là vắc-xin “5 trong 1” được ứng dụng trong chương trình tiêm chủng mở rộng đã giúp việc phòng bệnh khá thuận tiện và hiệu quả. Riêng loại vắc-xin Infanrix Hexa thường gọi là vắc-xin “6 trong 1” có tác dụng phòng ngừa 6 bệnh gồm bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt, viêm gan B, bệnh do nhiễm Hib đã bổ sung thêm tác dụng phòng bệnh bại liệt mà loại vắc-xin Quinvaxem không có; vì vậy cũng thuận lợi trong việc sử dụng nhưng loại vắc-xin này không nằm trong chương trình tiêm chủng mở rộng miễn phí mà người dùng phải chi trả tiền dịch vụ.
Lời khuyên của thầy thuốc
Như vậy để phòng bệnh bạch hầu có hiệu quả, phải tăng cường thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng ở cơ sở đạt tỷ lệ bảo vệ cao; đặc biệt là trẻ em ở các thôn bản tại vùng sâu, vùng xa, vùng cao, miền núi và biên giới. Ngoài ra trước tình hình bệnh bạch hầu có nguy cơ xâm nhập từ Lào vào nội địa nước ta từ đường biên giáp ranh ở một số tỉnh cũng là vấn đề đáng lo ngại vì chúng có khả năng lây lan ra tại chỗ là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy phải lưu ý việc kiểm soát, giám sát, kiểm dịch y tế biên giới để phát hiện bệnh xâm nhập nhằm có biện pháp đối phó, xử trí kịp thời; khi phát hiện người bệnh có dấu hiệu mắc bệnh bạch hầu, cần đưa ngay đến cơ sở y tế để được chăm sóc và quản lý điều trị, tránh lây lan cho gia đình và cộng đồng. Thực tế thời gian qua, việc tiêm loại vắc-xin Quinvaxem “5 trong 1” trong chương trình tiêm chủng mở rộng đã gây nên một số trường hợp tử vong ở trẻ nhưng nguyên nhân được xác định không phải do chất lượng vắc-xin hay thực hiện quy trình tiêm chủng mà do cơ địa của trẻ hoặc trẻ mắc phải bệnh lý đi kèm không phát hiện được. Vì vậy các cơ sở y tế cũng cần chú ý việc sàng lọc kỹ đối tượng trước khi tiêm chủng vắc-xin phòng bệnh để loại trừ hoặc hoãn thời gian tiêm chủng nhằm bảo đảm sự an toàn.