Nhiều năm qua công tác y tế dự phòng ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựuxuất sắc góp phần tích cực vào sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tuy nhiên hiện nay hệ thống y tế dự phòng vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, nhất là trước tình hình các bệnh truyền nhiễm ở Việt Nam cũng như trên thế giới diễn biến hết sức phức tạp, nguy cơ một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm mới xuất hiện (bò điên, Ebola, SARS, HIV/AIDS, cúm A (H5N1) và một số bệnh dịch có khả năng quay trở lại (sốt rét, sốt xuất huyết, lao, phong) đang là mối đe dọa đến tính mạng cũng như sức khỏe cộng đồng. Theo đánh giá của Bộ Y tế (Chiến lược quốc gia Y tế dự phòng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng 2020) về nhận thức y tế dự phòng chưa được quan tâm một cách thích đáng và đầy đủ của toàn xã hội, cơ chế thu hút các nguồn lực đầu tư cũng như chính sách đãi ngộ cán bộ làm công tác y tế dự phòng còn nhiều bất cập, cơ sở hạ tầng của hệ thống y tế dự phòng chưa đáp ứng yêu cầu phòng chống dịch bệnh, tài chính dành cho hoạt động y tế dự phòng quá thấp, đội ngũ cán bộ y tế dự phòng còn thiếu về số lượngvà chưa đảm bảo về chất lượng, công tác đào tạo cán bộ cho hệ y tế dự phòng chưa được chú trọng. Thực tế hiện nay gần 75% cán bộ y tế dự phòng đang làm việc tại các cơ sở y tế dự phòng không được đào tạo theo chuyên ngành mà là bác sĩ đa khoa chuyển sang, nên có xu hướng muốn trở lại công tác tại các tuyến điều trị dẫn đến tình trạng nhiều đơn vị làm công tác y tế dự phòng, kể cả các tuyến trung ương rất khó khăn trong việc thu hút nguồn nhân lực; đó là chưa kể đến mô hình Trung tâm y tế dự phòng tuyến huyện sau khi chia tách khỏi Trung tâm y tế huyện rất khan hiếm đội ngũ cán bộ có khả năng kiểm soát dịch bệnh tại địa phương.
 |
Thực tập tại Bệnh viện của các y Bác sĩ tương lai |
Trước thực trạng tình hình như vậy, Bộ Y tế đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo nguồn nhân lực cho hệ y tế dự phòng, đặc biệt là thời gian gần đây tại Hà Nội, Bộ Y tế đã tổ chức Hội nghị để bàn về đào tạo nhân lực y tế dự phòng từ nay đến năm 2010. Công tác đào tạo sẽ được thực hiện đồng thời theo các bậc sau đại học, đại học, trung cấp, kỹ thuật viên… trong đó chú trọng đào tạo dài hạn bác sĩ y tế dự phòng đi đôi với đào tạo định hướng, đào tạo chuyên khoa sơ bộ các bác sĩ đa khoa làm việc tại các cơ sở y tế dự phòng. Việc đào tạo sẽ được mở rộng tại tất cả các trường đại học Y, trường đại học y tế công cộng, các trường cao đẳng và trung cấp y tế có đủ năng lực thực hiện. Trường Đại học Y Hà Nội được giao nhiệm vụ làm đầu mối phối hợp với Vụ Khoa học và Đào tạo-Bộ Y tế xây dựng khung chương trình đào tạo về y tế dự phòng, sau đó loại hình đào tạo nhân lực y tế dự phòng sẽ được mở rộng tới tất cả các cơ sở đào tạo theo quy định của Bộ Y tế và Bộ giáo dục-Đào tạo.
Tuy nhiên, vấn đề thực tiễn đặt ra là nếu khung chương trình đào tạo được phê duyệt và chính thức đưa vào áp dụng, thì phải sau 5 năm (2008-2012) thì các cơ sở đào tạo chính quy mới có thể xuất xưởng thế hệ chuyên khoa y tế dự phòng đầu tiên, trong khi nhu cầu trước mắt từ nay đến năm 2010 chúng ta cần phải có một đội ngũ cán bộ y tế dự phòng ít nhất là 10.000 người mới đảm bảo hiệu quả hoạt động kiểm soát dịch bệnh cho tất cả các tuyến từ trung ương đến cơ sở. Ngoài vấn đề đào tạo chính quy và đào tạo chuyên khoa sơ bộ cho các tuyến huyện, tỉnh và trung ương; một vấn đề không kém phần quan trọng cần phải tính đến là làm thế nào để mạng lưới cán bộ y tế xã và y tế thôn bản đảm bảo được trình độ cũng như năng lực kiểm soát dịch bệnh ngay từ cơ sở, tránh những trường hợp tử vong đáng tiếc như ở một số xã thuộc huyện Nam Trà My (tỉnh Quảng Nam) trong thời gian qua do không kịp phát hiện và xử lý kịp thời. Do đó bên cạnh đào tạo lâu dài nguồn nhân lực y tế dự phòng theo định hướng đòi hỏi ngành y tế cần phải có một số giải pháp cấp bách trước mắt như sau:
1. Ngoài cơ sở đào tạo là các trường đại học y, trường đại học y tế công cộng, trường cao đảng và trung cấp chuyên nghiệp; cần tranh thủ sự đào tạo tại các viện nghiên cứu chuyên ngành có đủ năng lực đào tạo theo mô hình liên kết đào tạo đại học (bác sĩ, cử nhân), đào tạo sau đại học (tiến sĩ, thạc sĩ, chuyên khoa I) hoặc đào tạo độc lập nếu có đủ điều kiện để kịp thời cung cấp nguồn nhân lực trong thời điểm trước mắt.
2. Đối với số cán bộ trung cấp làm công tác y tế dự phòng lâu năm, có nhiều kinh nghiệm và nhiệt huyết với ngành nghề (y sĩ, kỹ thuật viên) cần tạo điều kiện đào tạo nâng cao trình độ (bác sĩ, cử nhân) để họ có cơ hội phát huy khả năng và gắn bó với ngành nghề.
 |
Công tác y tế dự phòng luôn gắn liền với thực địa |
3. Đối với đội ngũ cán bộ kỹ thuật sơ cấp làm công tác y tế dự phòng có thể tranh thủ sự đào tạo tại chỗ của các cơ sở chuyên khoa tuyến tỉnh (Trung tâm Phòng chống sốt rét/Trung tâm Y tế dự phòng), đồng thời quy định cho các tuyến này được phép cấp bằng sơ cấp để vừa đáp ứng nguồn lực tại địa phương, vừa có cơ sở pháp lý cho số cán bộ này đi học nâng cao trình độ trung cấp sau này.
4. Chú trọng chính sách và chế độ đãi ngộ phù hợp để các cán bộ đang làm công tác y tế dự phòng, đặc biệt là các bác sĩ yên tâm công tác và gắn bó lâu dài với chuyên ngành. Đối với cán bộ y tế cơ sở (huyện, xã, thôn bản) ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn cần có chế độ chính sách riêng biệt để họ có thể yên tâm thực hiện nhiệm vụ được giao tại cơ sở.
Để khắc phục sự hạn chế trong quy mô đào tạo y tế dự phòng, việc hỗ trợ nhau giữa các đơn vị chuyên khoa tuyến trung ương và tuyến tỉnh với hệ thống các trường đại học y, trường đại học y tế công cộng, trường cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp sẽ hình thành một sợi dây kết nối hợp tác tích cực đảm bảo duy trì thường xuyên nguồn nhân lực của hệ y tế dự phòng. Với nền tảng mạng lưới và điều kiện hoạt động như vậy cùng với sự quan tâm về chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước tin rằng hệ y tế dự phòng Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển một cách vững chắc.