Giám sát bệnh nhân sốt xuất huyết là một trong những nội dung của công tác giám sát dịch tễ rất cần thiết nhằm góp phần tổ chức thực hiện công tác phòng chống dịch bệnh có hiệu quả. Việc giám sát này cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, nhất là vào thời điểm mùa bệnh phát triển để có biện pháp xử trí kịp thời, phù hợp.

Giám sát bệnh nhân sốt xuất huyết là một nội dung cần thiết trong giám sát dịch tễ (ảnh minh họa)
Đặc điểm bệnh sốt xuất huyết
Sốt xuất huyết là bệnh nhiễm loại vi-rút Dengue cấp tính do muỗi truyền và có thể gây thành dịch lớn. Đây là bệnh dịch lưu hành địa phương ở nước ta, thường xảy ra ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng Bắc Bộ và vùng ven biển miền Trung. Do đặc điểm địa lý, khí hậu khác nhau; ở miền Nam và miền Trung bệnh xuất hiện quanh năm, ở miền Bắc và Tây Nguyên bệnh thường xảy ra từ tháng 4 đến tháng 11; những tháng khác ở miền Bắc bệnh ít xảy ra vì thời tiết lạnh, ít mưa nên không thích hợp cho sự sinh sản và hoạt động của muỗi truyền bệnh. Trên thực tế, bệnh sốt xuất huyết phát triển nhiều nhất từ tháng 7 đến tháng 10 hàng năm. Việc chẩn đoán xác định bệnh trong phòng thí nghiệm bằng phương pháp phân lập, phát hiện vật liệu di truyền hoặc kháng nguyên vi-rút ở máu trong vòng 5 ngày đầu kể từ khi sốt hoặc phát hiện kháng thể IgM kháng vi-rút Dengue đặc hiệu trong huyết thanh từ sau ngày thứ 5.
Tác nhân gây bệnh sốt xuất huyết là vi-rút Dengue thuộc nhóm Flavivirus, họ Flaviviridae với 4 típ huyết thanh ký hiệu DEN-1, DEN-2, DEN-3 và DEN-4. Thời gian ủ bệnh từ 3-14 ngày, trung bình từ 5-7 ngày. Lưu ý bệnh nhân là nguồn lây bệnh trong thời kỳ có sốt, trong vòng 5 ngày đầu của thời kỳ sốt là giai đoạn ở máu có nhiều vi-rút nhất. Muỗi bị nhiễm vi-rút thường sau 8-12 ngày sau khi hút máu người bệnh và có thể truyền bệnh sang cho người lành, đồng thời có khả năng truyền bệnh suốt đời. Tất cả mọi người chưa có miễn dịch đặc hiệu sốt xuất huyết đều có thể mắc bệnh từ trẻ sơ sinh cho đến người lớn. Sau khi khỏi bệnh, người bệnh sẽ được miễn dịch suốt đời với típ vi-rút Dengue gây bệnh nhưng không được miễn dịch bảo vệ chéo với các típ vi-rút Dengue khác. nếu bị mắc bệnh lần thứ hai với típ vi-rút khác, bệnh nhân có thể sẽ bị bệnh nặng hơn và dễ xuất hiện tình trạng sốc. Bệnh không có khả năng lây truyền trực tiếp từ người sang người mà do muỗi truyền bệnh Aedes aegypti và Aedes albopictus đốt máu người bệnh có mang vi-rút sau đó truyền vi-rút sang cho người lành qua vết đốt; Aedes aegypti là loài muỗi truyền bệnh chủ yếu ở khu vực đô thị, còn Aedes albopictus thường là loài muỗi truyền bệnh ở vùng nông thôn và miền núi. Hiện nay bệnh sốt xuất huyết chưa có vắc-xin phòng bệnh và thuốc điều trị đặc hiệu nên biện pháp phòng chống cơ bản nhất vẫn là khống chế trung gian truyền bệnh, đặc biệt là diệt lăng quăng và bọ gậy với sự tham gia tích cực của từng hộ gia đình và cả cộng đồng; đây là biện pháp đơn giản và hiệu quả nhất nhưng việc triển khai thực hiện trên thực tế vẫn còn có những mặt hạn chế.
Giám sát bệnh nhân sốt xuất huyết
Như trên đã nêu, bệnh nhân sốt xuất huyết là nguồn lây bệnh trong thời kỳ có sốt, trong vòng 5 ngày đầu của thời kỳ sốt là giai đoạn ở máu có nhiều vi-rút nhất. Muỗi bị nhiễm vi-rút thường sau 8-12 ngày sau khi hút máu người bệnh và có thể truyền bệnh sang cho người lành, đồng thời có khả năng truyền bệnh suốt đời. Vì vậy việc giám sát bệnh nhân sốt xuất huyết là một yêu cầu quan trọng trong các nội dung giám sát dịch tễ.
Giám sát, phát hiện ca bệnh
Bệnh nhân sốt xuất huyết bao gồm ca bệnh lâm sàng hay ca bệnh giám sát và ca bệnh xác định. Ca bệnh lâm sàng thường gọi là ca bệnh giám sát được phát hiện, ghi nhận ở những người sống hoặc đến từ vùng có ổ dịch hay có bệnh sốt xuất huyết lưu hành trong vòng 14 ngày có biểu hiện sốt cao đột ngột, sốt liên tục từ 2-7 ngày và có ít nhất 2 trong các dấu hiệu sau: Biểu hiện xuất huyết với nhiều mức độ khác nhau như nghiệm pháp dây thắt dương tính, có chấm hay mảng xuất huyết ở dưới da, chảy máu chân răng hoặc chảy máu cam. Nhức đầu, chán ăn, buồn nôn, nôn. Da xung huyết, phát ban. Đau cơ, đau khớp, nhức hai hố mắt. Vật vã, li bì. Đau bụng vùng gan hoặc ấn đau vùng gan. Ca bệnh xác định là ca bệnh được chẩn đoán xác định bằng kỹ thuật ELISA (enzyme linked immunosorbent assay) để phát hiện IgM (immunoglobulin M) hoặc NS1 (nonstructural 1), phân lập vi-rút hoặc xét nghiệm PCR (polymerase chain reaction). Bệnh phát hiện được phân loại ca bệnh theo hướng dẫn quy định gồm sốt xuất huyết nhẹ, sốt xuất huyết có dấu hiệu cảnh báo và sốt xuất huyết nặng.
Thực hiện báo cáo thường kỳ
Cần thu thập đầy đủ những thông tin về tình hình bệnh nhân sốt xuất huyết trong cộng đồng và những bệnh nhân đã tiếp nhận khám, điều trị ở các cơ sở khám chữa bệnh công lập và tư nhân với số lượng mắc, tử vong theo số ca bệnh lâm sàng và số ca bệnh xác định, phân loại ca bệnh, phân nhóm tuổi từ 15 tuổi trở xuống và trên 15 tuổi; ghi rõ tên địa phương có ca bệnh, thời gian mắc bệnh. Sau đó thực hiện việc báo cáo theo mẫu và thời gian quy định. Khi có trường hợp tử vong do sốt xuất huyết, địa phương phải có trách nhiệm thu thập thông tin đầy đủ theo mẫu quy định, gửi báo cáo ngay về Bộ Y tế và các viện khu vực liên quan nơi bệnh nhân tử vong cư trú trước đó đối với trường hợp tử vong là người ngoại tỉnh.
Giám sát trọng điểm sốt xuất huyết
Giám sát trọng điểm sốt xuất huyết có mục đích xác định xu hướng diễn biến của bệnh ở địa phương thông qua việc kết hợp và phân tích các dữ liệu liên quan đến bệnh gồm số liệu ca bệnh, chỉ số trung gian truyền bệnh và xét nghiệm phát hiện vi-rút Dengue. Cần chọn cơ sở để thực hiện việc giám sát trọng điểm. Mỗi khu vực chọn 2 tỉnh, riêng Tây Nguyên chọn 1 tỉnh; ở mỗi tỉnh chọn 1 điểm giám sát tại bệnh viện quận, huyện, thị xã và 1 điểm giám sát tại cộng đồng thường là xã, phường, thị trấn không phải là trọng điểm của tỉnh. Mỗi tỉnh chọn 1 điểm giám sát tại bệnh viện huyện, thị xã, thành phố; số điểm giám sát có thể mở rộng tùy theo khả năng của từng tỉnh và số điểm giám cộng đồng theo tỷ lệ phân trăm số xã, phường, thị trấn trọng điểm được quy định cụ thể trong kế hoạch hoạt động hàng năm. Việc giám sát trọng điểm sốt xuất huyết được thực hiện tại bệnh viện và tại cộng đồng theo các nội dung quy định. Tại bệnh viện, phải phát hiện, lấy mẫu và xét nghiệm tất cả các ca bệnh đến khám hoặc nhập viện theo ca bệnh lâm sàng hay ca bệnh giám sát và thực hiện báo cáo theo mẫu phiếu điều tra bệnh nhân. Tại cộng đồng xã, phường, thị trấn; phải giám sát bệnh nhân, báo cáo theo mẫu phiếu điều tra bệnh nhân quy định; đồng thời cũng phải thực hiện việc giám sát trung gian truyền bệnh và giám sát huyết thanh.
Điều cần quan tâm
Tại các địa phương thường có sốt xuất huyết lưu hành, đặc biệt là vào thời điểm bệnh bùng phát mạnh thì công tác giám sát bệnh nhân sốt xuất huyết có vai trò khá quan trọng. Bệnh nhân sốt xuất huyết được các nhà khoa học xác định là nguồn lây bệnh trong thời gian có sốt và trong vòng 5 ngày đầu của thời kỳ sốt ở máu người bệnh có mật độ vi-rút rất cao; vì vậy nguy cơ lây nhiễm từ người bệnh sang người lành qua trung gian của muỗi mang mầm bệnh đốt máu dễ có khả năng xảy ra. Do đó tại cơ sở khi giám sát, phát hiện bệnh nhân sốt xuất huyết cần phải có biện pháp quản lý để điều trị triệu chứng và theo dõi, chủ động ngăn ngừa sự lây truyền bệnh sang những người khác trong cộng đồng do muỗi truyền vì hiện nay sốt xuất huyết chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và vắc-xin phòng bệnh.