Trong phòng chống sốt rét ở bất cứ quốc gia nào cũng đều phải tác động vào cả 3 khâu lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét là trung gian truyền bệnh (diệt muỗi sốt rét), tác nhân gây bệnh (điều trị bệnh nhân có ký sinh trùng sốt rét) và người có nguy cơ phơi nhiễm sốt rét (truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét) nên trong chuyên ngành đôi khi xuất hiện thuật ngữ "đi bằng hai chân" (diệt muỗi truyền bệnh, điều trị bệnh nhân sốt rét) hoặc "ba chân" (diệt muỗi truyền bệnh, điều trị bệnh nhân sốt rét và nâng cao ý thức tự phòng chống sốt rét của người dân). Trong phạm vi bài này chúng tôi chỉ đề cập đến "chân" đầu tiên tức là vai trò của hóa chất diệt côn trùng trong phòng chống muỗi sốt rét.
Trong lịch sử phòng chống sốt rét (PCSR), nhiều loại hoá chất khác nhau đã được sử dụng dưới nhiều hình thức và loại hóa chất được cho là cứu cánh của nhân loại trong phòng chống sốt rét là DDT thuộc nhóm Chlo hữu cơ, có hiệu lực diệt muỗi cao, tồn lưu lâu trên các bề mặt tường vách, giá thành rẻ, được sử dụng rộng rãi trong các chương trình tiêu diệt sốt rét (TDSR) và PCSR. Tuy nhiên, sau một thời gian sử dụng, một số véc tơ đã kháng với hóa chất này; mặt khác bằng chứng DDT tồn lưu lâu trong môi trường, cơ thể sinh vật nên ngày nay hầu như không được sử dụng. Để thay thế cho DDT, các hoá chất thuộc nhóm Phospho hữu cơ, Carbamat và gần đây là Pyrethroid đã được khảo nghiệm, lựa chọn sử dụng để phun tồn lưu hoặc tẩm màn trong phòng chống véc tơ truyền bệnh sốt rét; trong đó các hóa chất thuộc nhóm Pyrethroid đã thay thế xứng đáng cho DDT trong Chương trình Quốc gia PCSR ở Việt Nam.
Các hóa chất diệt côn trùng đã sử dụng trong phòng chống sốt rét
Hóa chất DDT
Trong các hóa chất thuộc nhóm chlor hữu cơ (DDT, Dieldrin, Lindane…), DDT là một trong những hóa chất diệt côn trùng đầu tiên được sử dụng rộng rãi để phun tồn lưu có tính bền vững, hiệu lực cao diệt muỗi truyền bệnh trú đậu trong nhà khi phun trên tường vách, tồn lưu lâu trong nhiều tháng và giá thành rẻ được Paul Muller phát hiện vào năm 1939 được sử dụng rộng rãi phòng chống muỗi Anopheles truyền sốt rét trên toàn thế giới giữa thế kỷ 20. DDT là một hóa chất có công hiệu trong việc diệt trừ côn trùng, nên ngoài việc dùng trong nông nghiệp, còn là một hóa chất hữu hiệu nhất trong tiêu diệt muỗi truyền bệnh sốt rét.
Trên thế giới, ở nhiều nước chương trình phòng chống bệnh sốt rét đã đạt được thành quả bằng cách phun hóa chất DDT vào nhà ở của người dân với một hoặc hai lần trong năm để diệt muỗi truyền bệnh. Tuy nhiên, năm 1976 WHO đã thông báo có 43 loài Anopheles kháng DDT; năm 1986 tăng lên 51 loài, trong đó 34 loài có khả năng truyền sốt rét; muỗi sốt rét kháng DDT cùng với KSTSR kháng thuốc điều trị đã làm thất bại chương trình tiêu diệt sốt rét toàn cầu. Cuối thập niên 70, WHO đã phải chuyển chiến lược tiêu diệt sốt rét toàn cầu sang phòng chống sốt rét. Mức độ muỗi sốt rét kháng DDT gia tăng trên phạm vi rộng và gây ô nhiễm môi trường do tồn lưu lâu (nhiều năm); đồng thời, người dân từ chối hợp tác sử dụng và phản ứng của các nhà bảo vệ môi trường vì xác định DDT có hại khi sử dụng trong nông nghiệp do không bị phân hủy nhanh, gây ô nhiễm theo phản ứng dây chuyền; nên năm 1980, WHO đã chính thức loại DDT ra khỏi danh mục hóa chất dùng phòng chống muỗi sốt rét. Dù vậy DDT vẫn là một loại hóa chất diệt côn trùng có hiệu quả rất cao ở một số nước. Dieldrin là loại thường dùng nhưng có độc tính cao với người và động vật nuôi nên không được khuyến khích sản xuất. Lindane được sử dụng ở những nơi côn trùng đã kháng DDT, mặc dù có độc tính cao hơn DDT nhưng có thể sử dụng một cách an toàn nếu thực hiện biện pháp thích hợp; giá thànhcao, kém bền vững so với DDT nên vai trò bị hạn chế.
Ở nước ta vào thời kỳ cao điểm của dịch sốt rét thập niên 80, tỷ lệ tử vong do sốt rét ác tính chiếm 46% so với tổng số bệnh nhân sốt rét. Theo báo cáo của Chương trình PCSR vùng Đông dương (Regional Malaria Control Programme in Indochina) năm 1996, một dự án tiến hành tại vùng có diện tích chiếm 22% so với diện tích toàn quốc thì tỷ lệ tử vong sốt rét của vùng này chiếm 46% so với tỷ lệ tử vong của toàn quốc. Cuối thập niên 90, diễn tiến của bệnh sốt rét ở Việt Nam vẫn còn khá phức tạp. Theo báo cáo của Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương các tháng cuối năm 1998 sốt rét có chiều hướng gia tăng đột ngột ở nhiều tỉnh như Bình phước (21%), Tây Ninh (84%), Lạng Sơn (90%) so với cùng kỳ năm trước. Trong suốt thời gian xuất hiện làn sóng phản đối sử dụng DDT trên thế giới, loại hoá chất này vẫn được sử dụng diệt muỗi truyền bệnh sốt rét có hiệu quả ở Việt Nam. Giai đoạn 1955-1978, DDT là vũ khí chiến lược diệt muỗi trong chương trình tiêu diệt sốt rét ở Miền Bắc Việt Nam. Tác dụng của DDT đã góp phần giảm mạnh bệnh sốt rét không còn là nỗi khiếp sợ của người dân sống ở miền núi, chứng tỏ việc sử dụng DDT diệt muỗi sốt rét đã đạt được nhiều kết quả cao trong chương trình TDSR. Giai đoạn 1975-1992, DDT tiếp tục được sử dụng diệt véc tơ truyền bệnh trên phạm vi toàn quốc đến khi chuyển sang Chương trình PCSR (1992) mới ngưng sử dụng. Sau giai đoạn này, bệnh sốt rét xuất hiện trở lại ở nhiều nơi trong nước, nhất là các tỉnh thuộc khu vực miền Trung-Tây Nguyên; trong khi các hóa chất thay thế diệt muỗi như organophosphates và pyrethroids lại có kết quả chưa đáng kể và tương đối đắt tiền. Phần lớn các chuyên gia hàng đầu về sốt rét, đều đồng ý rằng DDT rất hiệu nghiệm trong phòng chống bệnh sốt rét và cần phải tiếp tục sử dụng. Tuy nhiên, vào những năm 80, muỗi truyền bệnh sốt rét đã tăng tính chịu đựng và kháng lại với DDT ở một số nơi, đồng thời nhiều năm trước đó WHO đã có lệnh cấm dùng DDT ở các nước đang phát triển, nên đến năm 1992 DDT chính thức bị loại bỏ khỏi danh mục hoá chất diệt muỗi truyền bệnh, thay vào đó là một số hóa chất thuộc nhóm pyrothroid lần lượt được đưa vào sử dụng trong Chương trình phòng chống sốt rét ở nước ta cho đến nay.
Hóa chất thuộc nhóm pyrethroid tổng hợp
Các hoá chất nhóm pyrethroid thay thế nhóm chlo hữu cơ và photpho hữu cơ đã mở ra hướng mới cho phòng chống véc tơ là fendona (alpha-cyhalothrin), K-othrin (deltamethrin), imperator (permethrin), ICON (lambda-cyhalothrin) phổ tác dụng rộng, độ an toàn cao, ít độc với động vật có vú, diệt côn trùng mạnh, ít mùi, khi phun không để lại dấu vết, dạng sử dụng phong phú, bền vững với ánh sáng, được WHO khuyến cáo sử dụng trong tẩm màn, phun tồn lưu phòng chống muỗi sốt rét ở các mức độ khác nhau và cộng đồng chấp nhận. Hóa chất nhóm pyrethroid tổng hợp được sử dụng ở những nơi côn trùng đã kháng lại với các nhóm hóa chất diệt nêu trên, được xếp vào loại có mức nguy hiểm trung bình, trong điều kiện sử dụng bình thường bảo đảm an toàn cho người và vật nuôi. Permethrin có các dạng bột và dịch nhũ tương tan nhanh trong nước, dùng phun tồn lưu trên tường vách, phun sương hoặc tẩm màn ngủ; hiệu lực tồn lưu diệt khoảng 2-3 tháng. Deltamethrin cũng có dạng bột và nhũ tương tan trong nước, có hiệu lực tác dụng từ 2-3 tháng trên tường vách bằng đất bùn và tranh, trên tường vách bằng các nguyên liệu khác tác dụng diệt tồn lưu có thể kéo dài 9 tháng. Lambdacyhalothrin tương tự cũng có dạng bột và nhũ tương tan trong nước, tên thương mại đang được sử dụng là Icon 10WP phun tồn lưu trên tường vách và Icon 2,5CS tẩm vào màn ngủ; tác dụng tồn lưu diệt kéo dài từ 4-6 tháng. Alpha-Cypermethrin có dạng dịch nhũ tương, tên thương mại là Fendona 10SC ; được sử dụng rất thuận tiện vì vừa phun tồn lưu trên tường vách, vừa tẩm màn ngủ; hiệu lực diệt tồn lưu có tác dụng trên 4 tháng hoặc lâu hơn.Các nhóm hoá chất thay thế DDT đã có vai trò lớn trong việc diệt trừ muỗi kháng thuốc, trong đó các hóa chất thuộc nhóm pyrethroid tổng hợp đã góp phần làm giảm mạnh bệnh sốt rét ở Việt Nam. Đến nay, hóa chất diệt côn trùng nhóm pyrethroid vẫn đang được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như y tế dự phòng, lâm nghiệp, nông nghiệp, bảo quản thực phẩm...
Các nghiên cứu đánh giá hiệu quả của màn tẩm hóa chất trong phòng chống sốt rét được tiến hành rộng rãi từ những năm 1980 của thế kỷ 20. Nghiên cứu của Dariet F. và cs. (1987) tại Bukinafasso cho thấy màn tẩm Permethrin vừa có tác dụng diệt, vừa có tác dụng xua với liều 0,08 g/m2 có tác dụng tồn lưu 5 tháng. Tại Việt Nam, thử nghiệm tẩm màn với Permethrin ở 3 miền (Bắc, Trung, Nam) trong nửa cuối thập kỷ 80 thấy với các liều tẩm từ 0,08 đến 0,2 g hoạt chất/m2 có tác dụng tồn lưu 3-6 tháng tuỳ theo địa phương. Một số nghiên cứu đánh giá hiệu quả tồn lưu của một số hoá chất tẩm màn của Deltamethrin (K-Othrin) liều 15mg hoạt chất/m2 từ 3-6 tháng, liều 20mg hoạt chất/m2 > 6 tháng;Etofenprox (vectron) liều 20mg hoạt chất/m2 từ 6-9 tháng và giảm mật độ muỗi đáng kể nếu tẩm trên diện rộng. Đặc biệt, tẩm màn với permethrin liều 20mg/m2 trên diện rộng đã làm giảm đáng kể mật độ muỗi nói chung và mật độ muỗi vào nhà nói riêng. Hiện nay, Dự án Quốc gia PCSR ở Việt Nam đang sử dụng các loại hóa chất diệt muỗi truyền bệnh phổ biến thuộc nhóm pyrethroid tổng hợp là Icon 10WPphun tồn lưu, Icon 2,5CS tẩm màn; Fendona 10SC vừa phun tồn lưu, vừa tẩm màn ngủ tùy theo mức độ lưu hành sốt rét tại địa phương. Tác dụng hiệu lực của các loại hóa chất này đã được xác định trên nghiên cứu thực nghiệm, đem lại nhiều thành quả trong phòng chống véc tơ và có thể thay thế cho các hoá chất đã kháng mà không gây ô nhiễm môi trường. Thực tế, hiệu quả của biện pháp can thiệp hóa chất diệt véc tơ truyền bệnh còn phụ thuộc chất lượng kỹ thuật pha hóa chất, phun tồn lưu hoặc tẩm màn, mức độ bảo quản hóa chất sau khi được phun, tẩm. Trong những năm qua, biện pháp can thiệp bằng hóa chất diệt muỗi nhóm pyrethroid đã đóng góp một phần rất lớn vào mục tiêu giảm mắc sốt rét với sự hưởng ứng tích cực của cộng đồng, sự giám sát chặt chẽ hiệu lực diệt muỗi trong Chương trình PCSR.
Đóng góp của hóa chất diệt muỗi trong phòng chống sốt rét
Hiệu quả của DDT trong phòng chống sốt rét
Trên thế giới, vai trò của DDT trong phòng chống sốt rét được ghi nhận rất nhanh khi được dùng lần đầu tiên ở Naples vào năm 1944, cứu hơn 1.3 triệu dân như được cứu rỗi, giảm nhanh số người bị sốt rét. Sau đó DDT được áp dụng cho khắp châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và châu Á. Phun tồn lưu DDT trên tường vách, giảm nhanh số lượng muỗi, giảm tỷ lệ mắc và tử vong sốt rét rất đáng kể. Ở Ấn Độ trước thập niên 1960 có khoảng 800 ngàn người chết sốt rét hàng năm, sau khi dùng DDT số người chết sốt rét giảm xuống còn 100 ngàn ; năm 1999-2000 khi giảm DDT có 3 triệu người bị sốt rét. Ở Sri Lanka từ 1934-1935 khoảng 2-3 triệu người mắc và 80 ngàn người chết sốt rét, năm 1963 khi sử dụng DDT số người bị sốt rét giảm xuống chỉ còn 17 trường hợp, năm 1994 khi DDT được thay thế bằng organophosphates và pyrethroids thì số người bị sốt rét tăng lên 360 ngàn. Ở Ý năm 1939 có 55 ngàn người bị sốt rét, năm 1940 khi DDT được dùng không có trường hợp sốt rét nào được ghi nhận. Ở Nga và Liên Xô cũ năm 1940 có 3 triệu ca sốt rét ở Bắc Moscow và Siberia, từ 1950-1960 khi DDT được đưa vào phòng chống muỗi, sốt rét hầu như bị xóa khỏi danh sách bệnh tật, nhưng năm 1996 khi ngừng DDT, số người bị sốt rét tăng lên 15 ngàn trường hợp. Ở Nam Phi năm 1931-1932 có 22 ngàn người chết sốt rét, trong những năm 1940-1950 khi dùng DDT, bệnh này hầu như bị xóa bỏ hoàn toàn, nhưng đến thập niên 90 khi DDT được thay thế bằng organophosphates và pyrethroids, số người bị SR được ghi nhận khoảng 7 ngàn. Theo thống kê, sau khi ngừng DDT và thay hoá chất khác diệt muỗi có hơn 90% trường hợp SR ở các nước nhiệt đới thuộc châu Phi và châu Á. Các nước Việt Nam, Cămpuchia, Lào, Thái Lan, Myanma và phần lớn Phi châu hàng nămkhoảng 300 triệu người nguy cơ và hơn 2 triệu người chết sốt rét phần lớn là trẻ em. Theo WHO, hàng năm khoảng 2 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết sốt rét, trung bình cứ 30 giây có một trẻ em chết vì SR ở các nước nghèo. Tại Zambia, sốt rét được xếp hàng đầu vì tử vong cao hơn nhiều so với AIDS và các bệnh khác; cứ mỗi 10 người dân có hơn 3 người mắc sốt rét. Ở Luanda gần 4000 người chết sốt rét năm 2000, riêng thủ đô của Angola có 3856 người chủ yếu là trẻ em chết sốt rét, cứ mỗi 12 người dân nước này có 1 người nhiễm sốt rét chủ yếu là trẻ em và phụ nữ có thai. Rõ ràng, DDT trong một thời gian dài là hoá chất diệt muỗi truyền bệnh sốt rét rất hiệu quả, đem lại kỳ tích lớn lao trong PCSR.
Hiệu quả của nhóm pyrethroid trong phòng chống sốt rét
Các hoá chấtdiệt muỗi thuộc nhóm này là alphacypermethrin, lambdacyhalothrin, deltamethrin, permethrin, Etofenprox… được sử dụng rộng rãi, góp phần to lớn trong các mục tiêu giảm chết, giảm mắc và đẩy lùi bệnh sốt rét toàn cầu. Tuy nhiên, qua quá trình sử dụng, tính kháng nhóm pyrethroid đang dần biểu hiện rõ bất chấp sự lạc quan ban đầu cho rằng nhóm hoá chất diệt côn trùng này sẽ không tạo nên tính kháng vì hoạt tính gây độc nhanh của nó. Tại Guatemala, sự kháng pyrethroid lần đầu tiên được ghi nhận ở muỗi An.albimamus với fenitrothion; khi deltamethrin được sử dụng, esterase đóng vai trò trong sự kháng fenitrothion đã được tăng cường do áp lực chọn lọc tạo ra tính kháng chéo với deltamethrin. Hơn thế nữa, người ta đã tìm ra sự kháng chéo DDT-permethrin là do oxidase trong cùng một cá thể muỗi. Tính kháng chéo tương tự cũng đã được phát hiện với C.pipiens ở Ohio. Tuy nhiên, với hơn 30 loài muỗi Anopheles spp truyền bệnh sốt rét, vai trò của các hóa chất diệt véc tơ nhóm pyrethroid trong PCSR là không thể phủ nhận. Tình hình sốt rét khu vực Tây Thái Bình Dương những năm đầu thế kỷ 21 giảm nhiều so với những năm cuối thế kỷ 20. Nhờ vậy năm 2007, WHO đã khuyến cáo một chiến lược mới, quy mô toàn cầu là loại trừ sốt rét với mục đích cắt đứt lan truyền sốt rét nội địa một cách bền vững. Tại Hội thảo ở Geneva năm 2008, WHO khuyến cáo các nước có bệnh sốt rét lưu hành xem xét triển khai chiến lược phòng chống và loại trừ sốt rét tại mỗi quốc gia. Năm 2009, trong số 82 quốc gia đang triển khai phòng chống sốt rét thì có 27 quốc gia chuyển sang loại trừ sốt rét (8 quốc gia triển khai tiền loại trừ sốt rét, 10 quốc gia triển khai loại trừ sốt rét, 9 quốc gia triển khai đề phòng sốt rét quay trở lại); 95 quốc gia và lãnh thổ đã được WHO kiểm tra công nhận không còn bệnh sốt rét.
Tại Việt Nam, quá trình sử dụng hóa chất diệt véc tơ truyền bệnh được Bộ Y tế cho phép sử dụng tùy theo giai đoạn đã có hiệu quả cao trong diệt muỗi sốt rét, góp phần thực hiện vượt mục tiêu PCSR đề ra.
Trong 10 năm đầu phòng chống sốt rét (1991-2000): các hóa chất thuộc nhóm pyrethroid lần lượt được đưa vào sử dụng và duy trì hàng năm như Permethrine 50 EC tẩm màn; ICON 10 WP phun tồn lưu và 2,5 SC tẩm màn, Fendona 10 SC phun tồn lưu và tẩm màn. Số lượng dân được bảo vệ bằng các hóa chất nhóm pyrethroid (phun tồn lưu và tẩm màn) tăng nhanh từ 4,3-7,8 triệu người/năm (1991-1993) lên 10,4-10,9 triệu người/năm (1994-1995); 12-13,8 triệu người/năm (1996-2000). Tổng cộng 10 năm (1991-2000) đã bảo vệ cho 104.202.078 lượt người, hàng năm bảo vệ cho hơn 30% số dân nguy cơ sốt rét, ưu tiên cho các vùng có sốt rét lưu hành nặng. Ở những khu vực này, tỷ lệ dân được bảo vệ bằng hóa chất lên tới 60-80% dân số địa phương; biện pháp phun tồn lưuđược chỉ định cho vùng có dịch, nguy cơ dịch hoặc vùng sốt rét lưu hành nặng và nhân dân chưa có thói quen nằm màn; đồng thời mở rộng diện tẩm màn bằng hóa chất từ hơn 300.000 người/năm 1991 lên 10-11 triệu người/năm (1997-2000) với tổng cộng số lượt người dân được bảo vệ bằng tẩm màn chiếm 70%, hỗ trợ 1.055.000 chiếc màn đôi cho các hộ nghèo ở các vùng sốt rét nặng. Nhiều địa phương, Hội liên hiệp phụ nữ và cán bộ y tế đã vận động nhân dân tự mua màn, tổ chức quay vòng vốn màn, giáo dục vận động nhân dân nằm màn và thực hiện các biện pháp vệ sinh môi trường phòng chống muỗi đốt. Tăng cường chất lượng và hiệu quả phòng chống muỗi sốt rét bằng các biện pháp giám sát phân bố và tập tính các véc tơ sốt rét ở các địa phương, đánh giá độ nhậy cảm của các véc tơ chính đối với hóa chất, đánh giá hiệu lực tồn lưu của các loại hóa chất, lựa chọn hóa chất và liều lượng thích hợp để phun tồn lưu và tẩm màn ở các vùng sốt rét khác nhau qua các giai đoạn; nhiều địa phương đã tổ chức được các đội phun, tẩm hóa chất chuyên trách hoặc bán chuyên nghiệp, bảo đảm chất lượng kỹ thuật; hướng dẫn, kiểm tra và đánh giá chất lượng phun, tẩm ở các tuyến. Biện pháp phòng chống véc tơ truyền bệnh sốt rét và phát hiện điều trị, quản lý ca bệnh luôn được kết hợp chặt chẽ (2 chân) ở các vùng sốt rét lưu hành, đặc biệt các trọng điểm sốt rét, góp phần tích cực đạt vượt chỉ tiêu giảm mắc và giảm chết sốt rét.
Giai đoạn 10 năm tiếp theo (2001-2010): Biện pháp phòng chống muỗi truyền bệnh bằng một số hóa chất nhóm pyrethroid tiếp tục được chỉ định phun tồn lưu ở những nơi có nguy cơ xảy dịch, nơi xảy dịch, nơi người dân không có đủ màn (2 người một màn) < 80% hoặc nơi không có thói quen ngủ màn. Biện pháp tẩm màn hóa chất được sử dụng rộng rãi ở vùng sốt rét lưu hành một lần/năm. Hóa chất sử dụng để phun tồn lưu và tẩm màn là Alphacypermethrin và Lamdacyhalothrin. Từ năm 2000 đến nay, mỗi năm có từ 10-12 triệu người trong vùng sốt rét lưu hành được bảo vệ bằng hóa chất diệt muỗi miễn phí, trong đó 1,2-2 triệu người được bảo vệ bằng hoá chất phun tồn lưu và 9,5-10 triệu người được bảo vệ bằng màn tẩm hóa chất diệt muỗi. Kết quả phòng chống véc tơ cùng với các biện pháp khác (điều trị bệnh nhân sốt rét, truyền thông giáo dục cộng đồng) tiếp tục làm giảm thấp các chỉ số sốt rét, đẩy lùi sốt rét một cách bền vững trong nhiều năm liền. Mặc dù kết quả phòng chống muỗi truyền sốt rét giai đoạn 2001-2010 góp phần đẩy lùi sốt rét tương đối bền vững, nhưng dân số được bảo vệ năm 2008 chỉ đạt 92% kế hoạch (10.239.652/11.134.000 người), năm 2009 chỉ đạt 86% kế hoạch (9.121.029/10.555.000 người). Chất lượng phun tẩm ở một số địa phương chưa đạt yêu cầu như tẩm màn 47 ngày, tỷ lệ muỗi chết chỉ đạt 40%; sau phun tồn lưu 68 ngày, tỷ lệ muỗi chết chỉ đạt 50%. Diện bao phủ và chất lượng phun tẩm không đạt yêu cầu là một trong những nguyên nhân làm KSTSR gia tăng trở lại 2009-2010. Một số loài muỗi Anopheles có hiện tượng tăng sức chịu đựng hoặc kháng với một số hóa chất của nhóm này, kết quả thử sinh học véc tơ sốt rét 2003-2010 tại nhiều vùng thấy kháng hóa chất nhóm pyrethroid đã phát triển lan rộng ở một số véc tơ sốt rét An.epiroticus, An.vagus, An.sinensis hoặc kháng rải rác ở một số điểm như An.minimus, An.subpictus, An.maculatus. Sự phát triển kháng hóa chất của muỗi sốt rét liên quan đến cơ chế trao đổi chất. Những năm tiếp theo, pyrethroid vẫn là nhóm hoá chất chủ yếu dùng trong chương trình phòng chống và loại trừ sốt rét ở Việt Nam, nắm được thực trạng độ nhậy cảm của muỗi truyền sốt rét với hóa chất diệt côn trùng và hiệu quả sử dụng hóa chất phòng chống sốt rét là cơ sở để lựa chọn hóa chất và chỉ định biện pháp phòng chống véc tơ phù hợp.
Thành quả phòng chống sốt rét ở Việt Nam
Chương trình TDSR được thực hiện ở miền Bắc từ 1955-1975, đến năm 1964 bệnh sốt rét giảm 20 lần. Từ năm 1976, chuyển chiến lược TDSR sang chiến lược thanh toán sốt rét không hạn định về thời gian, đến 1991-1992 sốt rét bùng nổ trên phạm vi toàn quốc với hàng trăm ngàn người mắc, hàng ngàn người chết và hàng chục vụ dịch sốt rét xảy ra. Năm 1991, Việt Nam đã chuyển chiến lược thanh toán sốt rét sang chiến lược PCSR và Chương trình PCSR trở thành một trong các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống một số bệnh xã hội.
Kết quả phòng chống sốt rét ở Việt Nam 1991 - 2000
Các chỉ số | Thời điểm thực hiện | So sánh tỷ lệ giảm (%) |
1991 | 2000 |
Bệnh nhân sốt rét | 1.091.251 | 293.016 | 73,15 |
Số mắc sốt rét/1.000 dân | 16,75 | 3,84 | 77,07 |
Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) | 187.994 | 74.329 | 60,46 |
KSTSR/1.000 dân | 2,77 | 0,97 | 64,98 |
Tử vong do sốt rét | 4.646 | 148 | 96,8 |
Tử vong do SR/100.000 dân | 7,13 | 0,19 | 97,33 |
Số vụ dịch sốt rét | 144 | 2 | 98,6 |
Mắc/chết do dịch sốt rét | 52.149/730 | 369/4 | 99,2/99,4 |
Số xã sốt rét lưu hành (31 tỉnh giảm) | 2.167 xã | 709 xã | 67,3 |
So sánh kết quả năm thứ 10 phòng chống sốt rét (2000) ở nước ta với năm đầu thực hiện (1991) với biện pháp phòng chống véc tơ bằng hóa chất nhóm pyrethroid đã góp phần quan trọng giảm chết sốt rét đến 96,8%; giảm mắc sốt rét 73,15%; số vụ dịch sốt rét giảm 98,6%. Trong 31 tỉnh có báo cáo giảm số xã lưu hành sốt rét thì có 4 tỉnh giảm 100% (không còn ký sinh trùng sốt rét nội địa). So với mục tiêu do Tổ chức Y tế thế giới khu vực Tây Thái Bình Dương năm 2000 so với 1992, Việt Nam giảm chết sốt rét đạt 94,4% (mục tiêu khu vực giảm chết 80%), giảm mắc sốt rét đạt 77,3% (mục tiêu khu vực giảm mắc 50%). Các thành tựu trên đã góp phần xứng đáng trong việc bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân, góp phần ổn định đời sống, phát triển kinh tế-xã hội và củng cố an ninh-quốc phòng, đặc biệt ở các khu vực miền núi, trung du và biên giới của nước ta.
Kết quả 20 năm phòng chống sốt rét (1991-2010)
Chỉ số | Các thời điểm thực hiện | Tỷ lệ giảm2010 so với |
1991 | 2000 | 2010 | 1991 | 2000 |
Số người chết do sốt rét | 4.646 | 148 | 20 | 99,2 | 84,8 |
Tỷ lệ chết SR /100.000 dân | 7,13 | 0,19 | 0,02 | 99,7 | 89,5% |
Bệnh nhân sốt rét | 1.091.251 | 293.016 | 53.876 | 95,7 | 83,6 |
Tỷ lệ mắc SR/1.000 dân | 16,75 | 3,84 | 0,61 | 96,4 | 84,1 |
Số ký sinh trùng sốt rét | 187.994 | 74.329 | 14.097 | | |
Tỷ lệ KSTSR/1.000 dân | 2,77 | 0,97 | 0,16 | | |
Số vụ dịch sốt rét | 144 | 2 | 0 | | |
Dân số bảo vệ hóa chất | 4.305.786 | 11.991.725 | 8.489.611 | | |
- Bằng phun tồn lưu: | 3.998.485 | 1.984.018 | 1.281.331 | | |
- Bằng tẩm màn: | 307.301 | 10.007.707 | 7.208.280 | | |
Qu
Qua 20 năm phòng chống sốt rét (1991-2010), các chỉ số sốt rét giảm mạnh theo mục tiêu đề ra, thậm chí nhiều tỉnh/thành phố không ghi nhận ca mắc SR. Năm 2010, toàn quốc có 20 ca chết sốt rét và 53.876 ca mắc sốt rét. Tỷ lệ chết do SR/100.000 dân là 0,02, giảm 89,5% (so với 2000) và 99,7% (so với 1991); tỷ lệ mắc SR/1.000 dân là 0,61; giảm 84,1%(so với 2000) và 96,4% (so với 1991). Trong 10 năm (2001-2009) 28 tỉnh miền Bắc và Nam bộ giảm số mắc, không có tử vong do sốt rét; 6 tỉnh không có tử vong do sốt rét trong 4 năm (2006-2010). Năm 2010 không có dịch sốt rét xảy ra, trong khi 1991 có 144 vụ và 2000 có 2 vụ.
Diễn biến tình hình sốt rét từ năm 1990 đến năm 2009
Số liệu trên đã khẳng định thành công của chương trình PCSR gắn liền với hiệu quả các biện pháp, trong đó có biện pháp diệt muỗi bằng hóa chất diệt.