Trong chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống sốt xuất huyết ở nước ta, nhiều mô hình phòng chống sốt xuất huyết đã được áp dụng nhằm giảm tỷ lệ mắc, tỷ lệ tử vong, khống chế sự bùng phát dịch và xã hội hóa công tác phòng chống sốt xuất huyết dựa vào cộng đồng.
Mô hình mạng lưới cộng tác viên phòng chống sốt xuất huyết
Mô hình cộng tác viên (CTV) phòng chống sốt xuất huyết (SXH) sau một năm theo dõi và đánh giá tại tỉnh Bến Tre thấy mô hình này theo đúng tiêu chuẩn quốc gia đạt được hiệu quả nhất định nhưng chưa cao, chỉ số nhà có bọ gậy ở xã CTV giảm đáng kể từ 73% xuống còn 48% và chỉ số Breteau từ 213 xuống còn 104. Kết quả nghiên cứu khác tại tỉnh Thừa Thiên-Huế từ năm 2002-2003 thấy tỉ lệ hộ gia đình được vãng gia giảm tỉ lệ nghịch với số hộ gia đình CTV phụ trách, nhóm CTV quản lý dưới 50 hộ thì tỉ lệ trên 90% hộ gia đình được vãng gia hàng tháng và tỉ lệ 40-58% hộ gia đình được vãng gia trong nhóm CTV quản lý trên 150 hộ. Nghiên cứu huy động cộng đồng và sử dụng phương pháp sinh học để phòng chống SXH tại 3 tỉnh miền Trung thấy sau 3 năm sử dụng tác nhân sinh học Mesocyclops để diệt bọ gậy của muỗi truyền bệnh SXH, tại nơi triển khai nghiên cứu không có dịch SXH xảy ra trong khi khu đối chứng lại bùng nổ thành dịch.
Theo kết quả đánh giá của Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống SXH khu vực phía Nam về hoạt động tổ chứ đội ngủ CTV trong giai đoạn 2001-2005 thấy tỷ lệ xã triển khai CTV dao động trong khoảng 16-20%, luôn vượt mức chỉ tiêu đặt ra hàng năm. Số hộ gia đình trung bình mỗi CTV quản lý từ gần 200 hộ/CTV vào những năm đầu đã giảm năm 2004 còn hơn 180 hộ/CTV, năm 2005 còn 140 hộ/CTV, năm 2006 còn 126 hộ/CTV, năm 2007 còn 102 hộ/CTV và trong năm 2008 chỉ còn 84 hộ/CTV. Số lượng hộ gia đình/CTV tuy có giảm nhưng vẫn còn cao so với khả năng vãng gia của CTV và chỉ tiêu đề ra của Chương trình (tối đa 60 hộ/CTV). Hiệu quả hoạt động của đội ngũ CTV thông qua các chỉ số bọ gậy ở các xã có CTV và xã chứng. Kết quả đánh giá cho thấy, qua các năm chỉ số bọ gậy ở xã CTV giảm dần từng năm, nổi bật với các chỉ số nhà có bọ gậy (HI) và chỉ số dụng cụng chứa nước có bọ gậy (CI). Tuy nhiên, các chỉ số bọ gậy của xã CTV giảm không nhiều và chỉ xấp xỉ với xã chứng. |
| Tiến hành dọn dẹp vệ sinh, tiêu diệt muỗi gây bệnh sốt xuất huyết. |
Mô hình chiến dịch diệt bọ gậy phòng chống sốt xuất huyết
Chiến dịch diệt bọ gậy phòng chống SXH đã được xem như một hoạt động thường kỳ của các khu vực trong cả nước, tất cả các tỉnh đều triển khai 1 năm 2 - 3 lần. Chiến dịch được tổ chức tại các xã/phường trọng điểm, xã nguy cơ dịch và xã có dịch. Kết quả đánh giá hoạt động triển khai chiến dịch diệt bọ gậy trong năm 2003 và 2004 tại các tỉnh phía Nam, cho thấy toàn khu vực tổ chức được 3.586 lượt chiến dịch, tăng gấp 3 lần so với năm 2003. Tổng số 581.167 lượt người tham gia và xử lý được 18.927.893 ổ bọ gậy, thu gom 7.859.676 kg phế thải, các chỉ số bọ gậy tại các xã trọng điểm đều giảm từ 2 - 3 lần so với trước chiến dịch.
|
Làm vệ sinh chum vại diệt lăng quăng, bọ gậy phòng bệnh sốt xuất huyết. (ảnh:suckhoedoisong.vn) |
Mô hình xử lý ổ dịch nhỏ trong phòng chống sốt xuất huyết
Nghiên cứu thí điểm mô hình xử lý ổ dịch nhỏ SXH tại huyện Châu Thành tỉnh Kiên Giang, kết quả cho thấy mô hình này có hiệu quả trong việc làm hạn chế dịch SXH bùng phát, đồng thời cũng có hiệu quả trong việc làm giảm chỉ số côn trùng ở mức ổn định và an toàn. Tuy nhiên đây chỉ là mô hình chống dịch ở quy mô nhỏ (thôn, ấp) khống chế không để dịch bùng phát thành dịch lớn.
Mô hình phòng chống sốt xuất huyết dựa vào học sinh
Nhận định về sự tham gia của cộng đồng là một chiến lược chính trong phòng chống SXH. Tất cả mọi người, mọi ban ngành cần phải chung sức trong công tác này thì mới có thể thành công trong điều kiện chưa có vắc xin chủng ngừa và thuốc đặc trị SXH như hiện nay. Một trong những lực lượng tích cực nhất, dễ tập hợp, có thể đạt hiệu quả lâu dài và khả thi là lực lượng học sinh. Muốn tận dụng được lực lượng này, việc cung cấp kiến thức về SXH cho học sinh là một vấn đề cần phải được đặt ra ngay trong giai đoạn hiện nay của Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống SXH.
Mô hình phóng thả tác nhân sinh học phòng chống sốt xuất huyết
Kết quả thử nghiệm việc phóng thả Mesocyclops vào các DCCN lớn là một biện pháp kiểm soát véc tơ chỉ tập trung vào các OBGN tại tỉnh Bình Thuận năm 2006 – 2007 đã cho kết quả tốt: các chỉ số muỗi và bọ gậy đã giảm dần và tỷ lệ DCCN lớn có Mesocyclops tăng dần: CSMĐM giảm 78%, CSBI giảm 85,5% và MĐBG giảm 98%; Tỷ lệ DCCN lớn có Mesocyclops đã tăng từ 5% - 72%. Như vậy, hiệu quả của việc sử dụng Mesocyclops trong các DCCN đã mở ra một hướng cho việc làm giảm quần thể véc tơ truyền bệnh SXH. Nhưng chỉ có tác động duy nhất của Mesocyclops thì hiệu quả sẽ không được bền vững, do vậy cần phải có sự tham gia tích cực của cộng đồng và sự chấp nhận của cộng đồng phóng thả Mesocyclops.
Khống chế véc tơ truyền bệnh SXH là yếu tố quyết định sự thành công của công tác phòng chống bệnh SXH. Trần Vũ Phong và CS đã nghiên cứu “Hiệu quả phòng chống sốt Dengue/sốt xuất huyết Dengue với chiến dịch tham gia của cộng đồng”. Kết quả nghiên cứu tại Nam Định và Nghệ An cho thấy Mesocyclops đã góp phần kiểm soát SXH một cách có hiệu quả. Tại các địa phương triển khai nghiên cứu, số lượng dụng cụ chứa nước có mặt của Mesocyclops tăng 285% so sánh với trước khi triển khai chiến dịch tham gia của cộng đồng. Tại Minh Thuận, mật độ muỗi và lăng quăng giảm tương ứng là 40% và 84%. Hơn thế nữa, giám sát SXH cho thấy tại huyện Diễn Châu (Nghệ An), số ca mắc giảm từ 317 ca năm 2008 xuống còn 24 ca vào năm 2009; tại xã Trung Đông (Nghệ An) số ca mắc giảm từ 13 ca năm 2008 xuống còn 7 ca năm 2009; nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng các chiến dịch truyền thông triển khai tại các vùng nông thôn sự tham gia tích cực của cộng đồng và việc sử dụng Mesocyclops có thể làm giảm đáng kể quần thể véc tơ của virus Dengue, góp phần phòng và kiểm soát bệnh SXH.
 |
Phun hóa chất khử trùng, diệt muỗi tại huyện Đông Anh, Hà Nội. Ảnh: PV |
Sử dụng hóa chất diệt côn trùng là biện pháp phòng chống muỗi truyền thống, nhưng có thể gây ảnh hưởng đến môi trường và gây hiện tượng kháng thuốc. Biện pháp phòng chống véc tơ bằng tác nhân sinh học đang được nhiều nhà khoa học quan tâm thử nghiệm. Năm 2010, Trần Vũ Phong, Nguyễn Thúy Hoa và CS đã thực hiện nghiên cứu “Khả năng cạnh trang giao phối của chủng muỗi Aedes aegypti OX513A với chủng tự nhiên thu thập ở đảo Cát Hải, Hải Phòng”. Kết quả đã nuôi thành công đến thế hệ thứ 10 (F10) chủng Ae.aegypti OX513A tại phòng thí nghiệm của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, với đặc điểm về sự phát triển từ trứng đến muỗi trưởng thành tương tự với chủng Ae.aegypti tự nhiên thu thập từ đảo Cát Hải. Sử dụng 100 cá thể muỗi đực chủng Ae.aegypti OX513A và 100 cá thể muỗi đực chủng Ae.aegypti tự nhiên cho giao phối với 100 muỗi cái chủng Ae.aegypti tự nhiên, đã xác định tỷ lệ giao phối với muỗi cái của muỗi đực chủng OX513A và muỗi đực chủng tự nhiên, tương ứng là 57% và 43%. Điều tra côn trùng tại 200 nhà ở 4 điểm A, B, C và F trên đảo Cát Hải đã xác định cụm A có tỷ lệ mật độ bọ gậy Ae.aegypti cao nhất (28,7 con/nhà) và có yếu tố địa lý, sinh thái phù hợp hơn các điểm khác để thử nghiệm phóng thả chủng muỗi chuyển gen gây chết muộn OX513A để phòng chống muỗi Ae.aegypti. Đây là nghiên cứu khởi đầu cho hướng đi mới trong phòng chống SXHD tại Việt Nam.