Nhóm các bện giun truyền qua đất là một trong 17 nhóm bệnh được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) xếp vào danh sách các bệnh nhiệt đới bị lãng quên (NTDs) trên phạm vi toàn cầu. Gần đây có một câu hỏi đặt ra liệu chăng virus Zika có thể là căn bệnh nhiệt đới của năm 2016 hay không? Không thể phủ nhận các thành quả mà WHO và các cơ quan y tế trong và ngoài nước đầu tư vào nghiên cứu điều tra gánh nặng bệnh tật các bệnh giun truyền qua đất, áp dụng các biện pháp can thiệp, đặc biệt là cung cấp một lượng lớn thuốc tẩy giun cho các cộng đồng ở nhiều quốc gia trên thế giới mang lại sức khỏe cho cộng đồng, đặc biệt là phụ nữ mang thai và trẻ em nhỏ.
Vấn đề cần quan tâm ở đây là độ bao phủ và các kết quả mang lại đã được đánh giá và ngày càng có nhiều đầu tư hơn nữa vào việc làm giảm gánh nặng này coh cộng đồng các quốc gia có bệnh lưu hành. Vấn đề kháng thuốc do các nhóm giun truyền qua đất cũng đang được quan tâm tại một số quốc gia sau một thời gian đã áp dụng rộng rãi các chiến dịch như thế. Gần đây, một ấn bản đăng trên Tạp chí The Lancet Infectious Diseases, tác giả Simon Brooker và đồng nghiệp qua tổng hợp về tình hình bệnh và việc phòng chống bệnh giun truyền qua đất (Soil Transmitted Helminthiasis_STHs) đã đưa ra những bình luận giúp độc giả có cái nhìn tổng quan và rộng rãi hơn về việc phòng chống các căn bệnh này. Bệnh giun truyền qua đất là một trong những nhóm bệnh nhiệt đới ít được quan tâm hay đang bị lãng quên (NTDS) với những hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe, dinh dưỡng, giáo dục và phát triển kinh tế của cộng đồng.
Điểm qua các sự kiện chung nhất của các bệnh nhiệt đới bị lãng quên cho thấy:
·100% các quốc gia có thu nhập thấp đang bị ảnh hưởng dồng thời bởi ít nhất 5 căn bệnh nhiệt đới bị lãng quên;
·Trên phạm vi toàn cầu, có 149 quốc gia và vùng lãnh thổ bị ảnh hưởng bởi ít nhất một bệnh nhiệt đới bị lãng quên (NTDs);
·Các bệnh nhiệt đới bị lãng quên giết chết ước tính 534.000 người mỗi năm trên thế giới;
·Các bệnh nhiệt đới bị lãng quên là một nguyên nhân quan trọng của gánh nặng bệnh tật, dẫn đến nhiều khuyết tật và tử vong;
·Các cá nhân thường bị nhiễm bởi 1 hoặc hơn một ký sinh trùng;
·Chi phí điều trị cho hầu hết các bệnh NTDs thoe chương trình điều trị hàng loạt ước tính < 50 cent US/ người/ năm.
Đã 15 năm kể từ khi Đại Hội đồng Y tế Thế giới (World Health Assembly_WHA) chấp thuận Nghị quyết WHA54.19 kêu gọi loại trừ nhóm bệnh giun truyền qua đất như là một vấn đề y tế công cộng ở những nơi có lan truyền thấp và giảm tỷ lệ mắc ở các nơi có tỷ lệ lan truyền cao. Kể từ đó, những nỗ lực chủ yếu tập trung xuyên suốt vào việc làm giảm tỷ lệ mắc các bệnh giun truyền qua đất ở các nhóm nguy cơ cao, trẻ em lứa tuổi học đường.
Chúng ta đã quá tin tưởng vào chiến lược can thiệp điều trị định kỳ hàng loạt bằng thuốc tẩy giun (phòng ngừa bằng thuốc) và xem độ bao phủ của thuốc như một thước đo duy nhất của thành công. Điều này dẫn tới tập trung đầu tư vào một nghiên cứu chọn lọc, hoặc ít nhất là triển khai thực hiện một phần của Nghị quyết WHA54.19, hơn nữa còn thúc đẩy cải thiện việc tiếp cận nguồn nước sạch, vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân và thuốc phòng bệnh cho phụ nữ và trẻ em.
Năm 2012, các tập đoàn Dược phẩm và các chế phẩm chăm sóc y tế Johnson & Johnson và GlaxoSmithKline (GSK) cam kết cung cấp 600 triệu liều thuốc tẩy giun mỗi năm, đủ để điều trị cho tất cả trẻ em lứa tuổi học đường có nguy cơ. Tiếp theo vào tháng 4.2014 cam kết của các nhà tài trợ khác và đã tạo ra một liên minh phòng chống bệnh giun truyền qua đất toàn cầu mới. Mục đích của liên minh là tạo điều kiện mở rộng quy mô về độ bao phủ của thuốc và mở rộng mạng lưới với hợp tác liên ngành để đạt được hiệu quả lâu dài về giảm tỷ lệ mắc và giảm lan truyền bệnh giun truyền qua đất.
Theo báo cáo năm 2013, tỷ lệ trẻ em lứa tuổi học đường trong diện nguy cơ được uống thuốc phòng là 39%, vẫn chưa đạt mục tiêu do TCYTT đề ra đến năm 2020 là 75%. Tuy nhiên, 29 quốc gia đã đạt được các mục tiêu của TCYTTG. Liệu họ có nên đặt mục tiêu cao hơn và theo đuổi mục tiêu ngăn chặn sự lan truyền? Nếu vậy, những khoản đầu tư nào sẽ đưa đến khả năng thành công cao nhất? Trong các nước này thì nước nào sẽ đạt được mục tiêu ngăn chặn lan truyền dễ nhất? Brooker và các đồng nghiệp đã đưa ra một khung chương trình toàn diện và một phân tích sơ bộ để cung cấp tài liệu cho cuộc thảo luận xung quanh những câu hỏi quan trọng.
Các nhà chính sách và nhà khao học đã xác định được 10 chỉ số quan trọng dự kiến có thể đạt được, trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn, góp phần vào việc ngăn chặn sự lây lan. Các nhà khoa học và nhà quản lý đã xem xét thấu đáo không chỉ các yếu tố liên quan đến đặc điểm sinh học của ký sinh trùng như cường độ lan truyền và vệ sinh môi trường mà còn các chỉ số về năng lực của chương trình như dịch vụ hậu cần, cơ sở hạ tầng, quản trị, tài chính và sức mạnh của hệ thống y tế, giáo dục.
Đó là một quan điểm rõ ràng đặc biệt phù hợp với các bệnh giun truyền qua đất khi cho uống thuốc tẩy giun dựa vào trường học, chương trình bổ sung vitamin A hoặc các chương trình phòng chống các bệnh nhiệt đới bị lãng quên (NTDs) khác.
Trong 10 chỉ số được xác định bởi Brooker và các đồng nghiệp thì chỉ số nào là quan trọng nhất? Các nhà nghiên cứu đã so sánh bốn phương pháp có tính chất thuyết phục khác nhau và sử dụng một điểm số tổng hợp để xếp các nước vào các nhóm theo tính khả thi trong ngăn chặn lây lan. Quả nhiên, các nước có tính khả thi cao thì có cường độ lan truyền thấp, môi trường ít phơi nhiễm với các bệnh giun truyền qua đất (đã cải thiện nước sạch và vệ sinh môi trường) và các hệ thống chức năng khác được đánh giá cao hơn. Một số độc giả sẽ nghi ngờ về sự phân định cụ thể trong việc xếp hạng các quốc gia cụ thể, nhưng các điều tra viên sẽ trình bày chi tiết về các phương pháp và giả định của họ để lôi cuốn tất cả chúng ta vào cuộc thảo luận và hành động.
Phòng chống bệnh giun truyền qua đất cho cộng đồng đã tập trung đúng vào việc mở rộng quy mô điều trị phòng ngừa bằng thuốc ở những khu vực có lan truyền cao nhất và cần thiết nhất. Tuy nhiên, khả năng của mỗi nước khác nhau. Đối với một số quốc gia, đạt 75% độ bao phủ của thuốc ở trẻ em lứa tuổi học đường đến năm 2020 sẽ cho là một thành tựu vĩ đại. Brooker và đồng nghiệp đã xác định được 41 quốc gia rất khả thi trong việc ngăn chặn lan truyền. Họ cũng đưa vào phân tích hơn 57 nước có khả năng lưu hành bệnh cao, các đảo quốc nhỏ và các quốc gia phát triển kinh tế nhanh chóng. Trong số này nhiều nước có ổ bệnh lan truyền liên tục, cùng với tăng cường giám sát và những biện pháp can thiệp có chủ đích, cuối cùng có thể thông báo chiến lược ngăn chặn lây lan là ít khả thi hiện nay. Ít thông tin về sự kết hợp của WASH (Water, Sanitation and Hygiene) và độ bao phủ của thuốc giữa các nhóm nguy cơ khác nhau sẽ cần được thiết lập khác nhau.
Điều đó làm sáng suốt hơn việc đầu tư để phòng chống giun truyền qua đất từ bài học của thực tế hiện nay. Bằng cách xây dựng các mục tiêu phòng chống bệnh giun truyền qua đất phù hợp với các điều kiện hoàn cảnh cụ thể, chúng ta sẽ huy động được các nguồn lực, thấy được những gì có thể thực hiện, có các chiến lược rõ ràng và tăng cường các giải pháp thực hiện. Để làm rõ vấn đề và những gì đã đạt được, chúng ta quay trở lại điểm ban đầu của tầm nhìn WHA trong kiểm soát bệnh giun truyền qua đất.
Nhiễm ký sinh trùng giun sán và vi khuẩn đường ruột: Lợi và hại trên miễn dịch đường ruột
Ước tính trên thế giới có hơn 2 tỷ người trên thế giới có giun sán đường ruột (con số này hiện đã thay đổi đáng kể do cải thiện môi sinh, truyền thông giáo dục sức khỏe, thay đổi hành vi, truyền thông nguy cơ, đầu tư kinh phí sổ giun cho nhóm quần thể có nguy cơ cao, đối tượng đích như phụ nữ tuổi sinh sản, trẻ em nhỏ,…) chủ yếu là trẻ em ở những vùng có điều kiện vệ sinh ăn uống và thân thể kém. Mặc dù, gây ra vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, nhưng giun sán thực sự có thể giúp hệ thống miễn dịch của vật chủ như là một cách gián tiếp bảo vệ mình (cơ chế bệnh chống bệnh và bệnh lý viêm mũi dị ứng, viêm xoang do ký sinh trùng, hay độ trầm trọng của viêm mũi xoang và bệnh do ký sinh trùng đã được chứng minh), chứ không nhất thiết lúc nào cũng gây hại coh cơ thể chúng ta.
Tuy nhiên, rất ít người biết về phương cách nào để cho giun sán tương tác với hệ thống miễn dịch của vật chủ. Một nghiên cứu mới của Trường Đại học Bách khoa liên bang Lausanne, Thụy Sĩ gần đây cho thấy, những tác dụng của vi khuẩn đường ruột giúp tiêu hóa được đăng trên tạp chí Miễn dịch học. Nghiên cứu cho biết, do thời gian tiến hóa lâu dài của chúng với động vật có vú, giun sán đã phát triển một mối quan hệ chặt chẽ với hệ thống miễn dịch của vật chủ, đến mức mà chúng có thể điều chỉnh hệ thống miễn dịch của vật chủ theo hướng có lợi. Ví dụ, giun sán có thể cải thiện tình trạng bệnh như hen suyễn. Tuy nhiên, chúng ta biết rất ít về cách giun sán điều chỉnh hệ thống miễn dịch, chúng ta có thể hay không khai thác được điều này để chống lại các bệnh do nhiễm trùng.
Phòng thí nghiệm của Nicola Harris đã chỉ ra rằng, các hoạt động chống viêm của giun sán đường ruột liên quan đến “microbiome” vi khuẩn của ruột, là những vi khuẩn thống trị tin tức dinh dưỡng trong những năm gần đây, khi chúng ta đang ngày càng biết thêm về ảnh hưởng của chúng đến quá trình trao đổi chất của người, khả năng miễn dịch và sức khỏe nói chung. Nghiên cứu nhấn mạnh, microbiome như một con đường mới thông qua đó giun sán có thể ảnh hưởng đến chức năng miễn dịch của vật chủ. Tương tự như vậy, lợi khuẩn đường ruột cũng giúp tăng cường miễn dịch. Bên cạnh những tác hại gây ra cho sức khỏe, một số vi khuẩn và giun trong đường ruột có thể giúp tăng cường hệ miễn dịch
Các nhà nghiên cứu Đại học Lausanne, Thụy Sỹ đã đi tìm câu trả lời cho câu hỏi vì sao nhiễm giun lại có thể tăng cường hệ miễn dịch. Nghiên cứu trên các bệnh nhân hen suyễn, các bệnh nhân bị viêm cho thấy, giun đã “hòa hợp” với hệ miễn dịch của cơ thể người đến mức không những nó không bị tiêu diệt, nó còn có khả năng điều chỉnh hệ miễn dịch theo hướng có lợi. Giun đường ruột đã kích thích các loại vi khuẩn đường ruột, được gọi là microbiome.
Các vi khuẩn này giúp tiêu hóa thức ăn thành các chất béo chuỗi ngắn, lần lượt kích hoạt các thụ thể của hệ miễn dịch. Mặc dù mới chỉ là các nghiên cứu ban đầu nhưng nó đã khẳng định vai trò nâng cao hệ miễn dịch của giun và microbiome. Tác giả nghiên cứu, TS. Nicola Harris cho rằng nghiên cứu mở ra một phương pháp mới để tăng cường hệ miễn dịch cho con người mà không cần tới giun sán có hại, tức là kích thích vào microbiome. Giun đường ruột là một nhóm ký sinh trùng, đặc biệt là giun sán, các ký sinh trùng đa bào có thể gây nhiễm trùng mạn tính cho con người.
Tài liệu tham khảo
1.Brooker SJ, Nikolay B, Balabanova D, Pullan RL (2015). Global feasibility assessment of interrupting the transmission of soil-transmitted helminths: A statistical modelling study. Lancet Infect Dis 2015;
2.Bundy DA, Walson JL, Watkins KL (2013). Worms, wisdom, and wealth: why deworming can make economic sense. Trends Parasitol 2013; 29:142-48.
3.Uniting to Combat Neglected Tropical Diseases (2015). Delivering on promises and driving progress: the second report on uniting to combat NTDs.
4.WHO (2015). Soil-transmitted helminthiases: number of children treated in 2013. Wkly Epidemiol Rec 2015; 90: 89-94.
5.WHO (2012). Soil-transmitted helminthiases: eliminating soil-transmitted helminthiases as a public health problem in children: progress report 2001-2010 and strategic plan 2011-2020. Geneva: WHO, 2012.
6.Anderson RM, Truscott JE, Pullan RL, Brooker SJ, Hollingsworth TD (2013). How effective is school-based deworming for the community-wide control of soil-transmitted helminths? PLoS Negl Trop Dis 2013; 7:e2092.
7.Truscott J, Hollingsworth TD, Anderson R. (2014). Modeling the interruption of the transmission of soil-transmitted helminths by repeated mass chemotherapy of school-age children. PLoS Negl Trop Dis 2014; 8:e3323.
8.Strunz EC, Addiss DG, Stocks M, Ogden S, Utzinger J, Freeman MC. (2014). Water, sanitation, hygiene and soil-transmitted helminth infection: A systematic review and meta-analysis. PLoS Med 2014; 11:e1001620.
9.Anderson R, Truscott J, Hollingsworth TD. (2014). The coverage and frequency of mass drug administration required to eliminate persistent transmission of soil-transmitted helminths. Philos Trans R Soc Lond B Biol Sci 2014; 369:20130435.
10.Hotez PJ, Kamath A (2009). Cappello, Michael, ed.Neglected Tropical Diseases in Sub-Saharan Africa: Review of Their Prevalence, Distribution, and Disease Burden. PLoS Negl Trop Dis 3 (8): e412.
11.Hotez PJ (2010). How To Cure 1 Billion People? Defeat Neglected Tropical diseases. Scientific America 302 (1): 90-4, 96.
12.Reddy M, Gill SS, Kalkar SR, Wu W, Anderson PJ, Rochon PA (2007). Oral drug therapy for multiple neglected tropical diseases: a systematic review. JAMA 298 (16): 1911-24.
13.GBD Mortality and Causes of Death, Collaborators (2014). Global, regional, and national age-sex specific all-cause and cause-specific mortality for 240 causes of death, 1990-2013: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2013. Lancet 385 (9963): 117-71.
14.Collaboration between WASH and NTD. World Health Organization, 2015
15.NTDs and access to water and sanitation are major global challenges. WHO, 2015.
16.Ramamoorthi, R; Graef, KM; Dent, J (2014). WIPO Re:Search: Accelerating anthelmintic development through cross-sector partnerships.". International journal for parasitology. Drugs and drug resistance 4 (3): 220-5.
17.Mohammed KA, Hail HJ, Gabrielli AF, et al. (2008). Triple Co-Administration of Ivermectin, Albendazole and Praziquantel in Zanzibar: A Safety Study. PLoS Negl Trop Dis 2 (1): e171.
18.Conteh L, Engels T, Molyneux DH (2010). Socioeconomic aspects of neglected tropical diseases". Lancet 375 (9710): 239-47.
19.WHO (2015). WHO strengthens focus on water, sanitation and hygiene to accelerate elimination of neglected tropical diseases. WHO, 2015