Năm 2013, là năm thứ hai thực hiện Chiến lược quốc gia phòng chống và loại trừ sốt rét ở nước ta, nhưng các biện pháp can thiệp chủ yếu vẫn nặng về phòng chống như diệt véc tơ sốt rét (phun tồn lưu hóa chất, tẩm màn), điều trị bệnh nhân sốt rét tại các cơ sở y tế và tự điều trị khi đi xa cơ sở y tế (stand-by treatment), truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét (PCSR) cho cộng đồng.
Nhiều năm qua, với sự quan tâm đầu tư của nhà nước (Chương trình quốc gia PCSR), các tổ chức quốc tế như Dự án PCSR Việt Nam-Australia (VAMCP), Việt Nam-EC (VMCP), Quỹ toàn cầu PCSR (VGF), Tổ chức Y tế thế giới (WHO)…; tình hình sốt rét ở nước ta đã được cải thiện đáng kể, vùng sốt rét dần bị thu hẹp, số ca chết và mắc sốt rét tập trung chủ yếu ở dân di biến động vào vùng sốt rét (di cư tự do, đi rừng, làm rẫy/ngủ rẫy, giao lưu biên giới…) khó bảo vệ bằng các biện pháp phòng chống sốt rét thường quy. Theo số liệu thống kê trong giai đoạn 5 năm gần đây (2006-2010) căn cứ vào chỉ số mắc là tác nhân gây bệnh (KSTSR) và tử vong sốt rét (TVSR), thì khu vực miền Trung-Tây Nguyên vẫn là trọng điểm sốt rét của cả nước với chỉ số KSTSR (68,43%), TVSR (54,79%); trong khi miền Nam KSTSR (23,19%), TVSR (40,41%) tập trung chủ yếu ở tỉnh Bình Phước và miền Bắc KSTSR (8,38%), TVSR (4,79%) tập trung chủ yếu ở một số tỉnh khu IV cũ (Nghệ An, Hà Tĩnh…).
Mục tiêu phòng chống và loại trừ sốt rét năm 2013 nhằm giảm mắc sốt rét< 0,40/1.000 dân;giảmTVSR< 0,02/100.000 dân; phòng sốt rét quay trở lại (16 tỉnh), loại trừ sốt rét(32 tỉnh), tiền loại trừ sốt rét(10 tỉnh) và PCSR tích cực (5 tỉnh) bảo đảm bệnh nhân sốt rét (BNSR) và người có nguy cơ sốt rét được tiếp cận các dịch vụ chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời;thực hiện các biện pháp phòng chống hiệu quả, thích hợp cho vùng có nguy cơ sốt rét; loại trừ sốt rét tại các vùng sốt rét lưu hành nhẹ, giảm mắc sốt rét ở các vùng nặng và vừa;nâng cao năng lực của hệ thống kiểm soát dịch bệnh, nghiên cứu khoa học, ứng dụng kết quả nghiên cứu giải quyết những vấn đề khó khăn kỹ thuật,nâng cao ý thức tự bảo vệ phòng chống sốt rét của người dân.Chỉ tiêu dân số bảo vệ bằng hoá chất trong năm 2013 là 10.673.000 lượt người; trong đó bảo vệ bằng phun hoá chất tồn lưu 2.175.800 lượt người, bảo vệ bằng tẩm màn8.497.200 lượt người. Điều trị sốt rét cho 522.000 lượt người và số lam máu phát hiện KSTSR3.000.000 lam.
Để thực hiện được các mục tiêu và chỉ tiêu trên, các giải pháp chính là đưa công tác phòng chống và loại trừ sốt rét vào chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội của ngành và địa phương; đẩy mạnh truyền thông giáo dục sức khỏe nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của người dânsống ở vùngsốt rét; phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời bệnh nhân sốt rét, phát triển và duy trì các điểm kính hiển vi xã; cập nhật thông tin về chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét theo hướng dẫn của WHO và thực tế hiệu lực các phác đồ điều trị sốt rét tại Việt Nam; cung cấp và quản lý thuốc sốt rét có hiệu lực cao cho các tuyến; tăng cường hệ thống giám sáttừ tuyến trung ương đến cơ sở, xây dựng quy trình và hướng dẫn theo dõi giám sát cho từng tuyến; nghiên cứu thuốc sốt rét mới, phác đồ mới điều trị BNSR, biện pháp sử dụng hóa chất diệt muỗi sốt rétphù hợp và đạt hiệu quả cao;nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ chuyên khoasốt rét; bảo đảm kinh phí cho các hoạt động từ nguồn ngân sách của nhà nước và các nguồn viện trợ khác;phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, mở rộng hợp tác quốc tế tìm kiếm khả năng hợp tác mới theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa.
Theo số liệu thống kê sốt rét 5 tháng đầu năm 2013 so với năm 2012 (2013/2012) của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương, cả nước TVSR (2/1) tại Bình Phước (1 ca) vàPhú Yên (1 ca), nguyên nhân do bệnh nhân nhập viện muộn, quá khả năng điều trị của các tuyến y tế. BNSR (13.777/15.975), giảm 13,76%; sốt rét ác tính (40/59), giảm 32,20%; KSTSR (5.953/6.555), giảm 9,18% so với cùng kỳ năm 2012 và không có dịch sốt rét xảy ra trên địa bàn cả nước.
Các chỉ số sốt rét cả nước 5 tháng đầu năm 2013 với cùng kỳ năm trước
Các chỉ số | Số liệu 5 tháng đầu năm (2013/2012) |
2013 | 2012 | % tăng/giảm (+/-) |
Tử vong sốt rét (TVSR) | 2 | 1 | 100,00 |
Tỷ lệ TVSR/100.000 dân | 0,002 | 0,001 | 96,20 |
Bệnh nhân sốt rét (BNSR) | 13.777 | 15.975 | -13,76 |
BNSR/1.000 dân | 0,153 | 0,181 | -15,40 |
Sốt rét ác tính (SRAT) | 40 | 59 | -32,20 |
Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) | 5.953 | 6.555 | -9,18 |
Tỷ lệ KSTSR/1.000 dân | 0,066 | 0,074 | -10,91 |
Dịch sốt rét | 0 | 0 | 0 |
Theo số liệu thống kê sốt rét 6 tháng đầu năm 2013 so với năm 2012 (2013/2012) của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên, số TVSR (1/3), giảm 66,57%; BNSR (5.975/6.917), giảm 13,62%; KSTSR 4.871/5.381, giảm 9,48%; SRAT (15/31), giảm 51,61% so với cùng kỳ năm 2012.
Các chỉ số sốt rét khu vực miền Trung-Tây Nguyên 6 tháng đầu năm 2013 với cùng kỳ năm trước
Các chỉ số | Số liệu 6 tháng đầu năm (2013/2012) |
2013 | 2012 | % tăng/giảm (+/-) |
Tử vong sốt rét (TVSR) | 1 | 3 | - 66,67 |
Tỷ lệ TVSR/100.000 dân | | | |
Bệnh nhân sốt rét (BNSR) | 5.975 | 6.917 | -13,62 |
BNSR/1.000 dân | 0,37 | 0,43 | - 13,95 |
Sốt rét ác tính (SRAT) | 15 | 31 | - 51,61 |
Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) | 4.871 | 5.381 | - 9,48 |
Tỷ lệ KSTSR/1.000 dân | 0,33 | 0,30 | - 9,09 |
Dịch sốt rét | 0 | 0 | 0 |
Mặc dù các chỉ số sốt rét (TVSR, SRAT, BNSR, KSTSR) trong 6 tháng đầu năm ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên đều có xu hướng giảm, tuy nhiên tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên so với cả nước theo con số thống kê chưa đầy đủ (4.871/5.953), chiếm 81,82% thì thấy vẫn rất đáng quan ngại, vì đây là tác nhân gây bệnh, đồng thời là nguồn bệnh trong khi hầu hết các vùng sốt rét ở nước ta vẫn còn hiện diện véc tơ truyền bệnh nguy cơ lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét còn cao.
 |
Biểu đồ phân bố ký sinh trùng ở các khu vực trong cả nước |
Điều đáng lưu ý là có đến gần 50% số tỉnh (7/15) khu vực miền Trung-Tây Nguyên có chỉ số KSTSR gia tăng là Quảng Nam (+ 65,75%), Quảng Ngãi (+ 64,71%), Phú Yên (+ 21,67%), Ninh Thuận (+ 18,35%), Quảng Bình (+12,50%), Đăk Nông (+ 6,82%) và Kon Tum (+ 4%) do di biến động dân số khó kiểm soát như đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới… Đây mới là thời điểm 6 tháng đầu năm sốt rét đã gia tăng cục bộ ở các tỉnh trọng điểm này, nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ KSTSR thì vào thời kỳ đỉnh bệnh 6 tháng cuối năm 2013 sẽ kéo theo các chỉ số sốt rét gia tăng hàng loạt.
Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu và chỉ tiêu đề ra, công tác phòng chống sốt rét năm 2013 đã tập trung vào kiện toàn tổ chức Ban điều hành Dự án quốc gia phòng chống và loại trừ sốt rét phù hợp với yêu cầu của giai đoạn mới, thống kê báo cáo, cập nhật thông tin kịp thời về tình hình sốt rét; tăng cường giám sát, chỉ đạo nâng cao chất lượng các biện pháp phòng chống sốt rét ở những vùng trọng điểm hoặc có gia tăng sốt rét. Các biện pháp can thiệp chủ yếu vẫn là diệt muỗi truyền sốt rét (phun tồn lưu hóa chất, tẩm màn), điều trị bệnh nhân sốt rét tại các cơ sở y tế và tự điều trị khi đi xa cơ sở y tế (stand-by treatment) và truyền thông giáo dục người dân có biện pháp tự bảo vệ khi vào hoặc sống trong vùng sốt rét lưu hành.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phòng chống và loại trừ sốt rét năm 2013 vẫn phải đối mặt với không ít khó khăn như vấn đề ký sinh trùng sốt rét đa kháng thuốc chống sốt rét, kể cả với thuốc có hiệu lực cao (Artemisinine); một số loài Anopheles có hiện tượng tăng sức chịu đựng hoặc kháng với nhóm hóa chất hiện dùng (Pyrethroid); các giải pháp chiến lược chưa đồng bộ trong phạm vi cả nước, còn thiên về phòng chống sốt rét tích cực hơn là loại trừ sốt rét. Công tác giám sát dịch tễ và giám sát véc tơ truyền bệnh, còn mang nặng tính hình thức và chưa hiệu quả, một số nơi kết quả giám sát dịch tễ chưa giúp được dự báo sốt rét gia tăng tại địa phương, không phát hiện được véc tơ chính hoặc vai trò truyền bệnh của véc tơ phụ ở những vùng có sốt rét gia tăng hàng năm. Chất lượng các biện pháp kỹ thuật phòng chống sốt rét chưa cao, kể cả biện pháp diệt véc tơ (phun, tẩm) và điều trị bệnh nhân sốt rét; việc chẩn đoán sốt rét lâm sàng quá cao, trong khi chỉ số ký sinh trùng sốt rét lại quá thấp ở một số tỉnh miền Bắc dẫn đến sử dụng thuốc sốt rét không đúng đối tượng dễ dẫn đến tình trạng kháng thuốc sốt rét lan rộng do gia tăng áp lực thuốc; chưa kiểm soát được biện pháp tự điều trị dẫn đến số lượng thuốc sử dụng quá lớn, không phù hợp với số lượng bệnh nhân sốt rét phát hiện. Chưa có biện pháp phòng chống sốt rét tối ưu cho các nhóm dân di biến động khó kiểm soát, nên tình hình sốt rét vẫn tập trung chủ yếu ở các nhóm dân này. Chưa chuyển đổi được nhận thức sang hành vi phòng chống sốt rét của cộng đồng, khi người dân hiểu biết về bệnh sốt rét nhưng lại không ngủ màn hoặc không đến cơ sở y tế để được chẩn đoán và điều trị khi bị sốt rét.
Những vấn kể trên cho thấy kết quả và hoạt động phòng chống & loại trừ sốt rét đạt được mới chỉ là dấu mốc tạm thời, để thực hiện được mục tiêu, chỉ tiêu năm 2013 và xa hơn nữa là mục tiêu chiến lược đến năm 2020 cần phải có những giải pháp ưu tiên thích hợp và thành quả đạt được mang tính bền vững.