Ngày 28/10/2008, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã tổ chức Hội thảo công nghệ thông tin (CNTT) ứng dụng trong các đơn vị y tế nhằm trao đổi kinh nghiệm, đánh giá kết quả đã thực hiện được, thảo luận tìm nguyên nhân các mặt còn tồn tại và hạn chế để có cơ sở đề xuất kiến nghị với Bộ Y tế có phương án hỗ trợ và chỉ đạo các đơn vị y tế nâng cao hiệu quả ứng dụng khoa học CNTT trong quản lý cũng như kiểm soát dịch bệnh.
Đến dự Hội thảo có đại diện lãnh đạo và chuyên viên CNTT của các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương, Quy Nhơn, TP. Hồ Chí Minh; lãnh đạo và chuyên viên các Viện Vac-xin Nha Trang, Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên, Bệnh viện Phong-Da liễu Trung ương Quy Hòa; lãnh đạo Sở Y tế Bình Định, Sở Khoa học & Công nghệ Bình Định, Công ty tin học Y tế Toàn Cầu và đại diện một số công ty phần mềm tin học; lãnh đạo và cán bộ thống kê dịch tễ của Trung tâm Phòng chống sốt rét-KST-CT/Trung tâm Y tế dự phòng 15 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên; Đài phát thanh truyền hình Bình Định, Báo Bình Định và Báo VNTTX tại Bình Định.
Hội nghị đã được cung cấp các tài liệu về Chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Thông tư liên tịch của Bộ Tài chính và Bộ Thông tin-Truyền thông hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí chi ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Hội nghị đã nghe các báo cáo xây dựng và triển khai ứng dụng CNTT tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên do TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn trình bày; phần mềm quản lý sốt rét (MMS) và hiệu quả sử dụng trong chuyên ngành do TS. Hồ Văn Hoàng-Phó Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn trình bày; ứng dụng phần mềm công nghệ thông tin MMS của tỉnh Thừa Thiên-Huế do BS. Nguyễn Võ Hinh-Giám đốc Trung tâm Phòng chống sốt rét-KST-CT Thừa Thiên-Huế trình bày, ứng dụng phần mềm công nghệ thông tin MMS của tỉnh Gia Lai do ThS. BS. Nguyễn Ngọc Lợi-Phó Giám đốc Trung tâm Phòng chống sốt rét-KST-CT Gia Lai trình bày; kết quả ứng dụng CNTT tại Bệnh viện Phong-Da liễu Trung ương Quy Hòa do BS. Nguyễn Thanh Tân-Giám đốc trình bày; giới thiệu chương trình E-health, Telemedicine & Telepharmacy ứng dụng trong chuyên ngành sốt rét, ký sinh trùng, côn trùng của ThS.BS. Huỳnh Hồng Quang-Trưởng Khoa Nghiên cứu lâm sàng-điều trị, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn trình bày; các giải pháp Medisolf do BS. Vũ Mạnh Tiến-Giám đốc Công ty tin học Y tế Toàn Cầu trình bày. Hội nghị cũng đã nghe các ý kiến tham luận và thảo luận của đại biểu Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng TP. Hồ Chí Minh, Sở Khoa học & Công nghệ Bình Định và một số đại biểu các đơn vị y tế tham dự.
 |
TS. Hồ Văn Hoàng-Phó Viện trưởng Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn trình bày phần mềm quản lý sốt rét (MMS) |
Kết quả ứng dụng CNTT của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn
Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy nhơn là đơn vị trung ương trực thuộc Bộ Y tế, phụ trách 15 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên (từ Quảng Bình đến Bình Thuận) và 4 tỉnh Tây Nguyên (Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lăk và Đăk Nông) gồm 140 huyện thị, 1930 xã/phường, dân số 15.098.762 người với 40 dân tộc khác nhau và diện tích 100.566 km2 (số liệu năm 2005).Đây là vùng có địa hình phức tạp, dân trí thấp, nhiều phong tục tập quán lạc hậu, tỷ lệ hộ đói nghèo cao, nắng hạn và lũ lụt kéo dài; đặc điểm tình hình bệnh sốt rét cũng như các bệnh ký sinh trùng và côn trùng truyền bệnh nặng hơn so với các khu vực khác trên cả nước: 92% số huyện và 57% dân số sống trong vùng sốt rét lưu hành, 70-80% dân nhiễm bệnh giun sán… Từ năm 2001-2008, mặc dù tình hình sốt rét trong cả nước có xu hướng giảm thấp, nhưng gánh nặng sốt rét hầu như vẫn tập trung ở các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên với tỷ lệ mắc bệnh gần 50%, nhiễm ký sinh trùng sốt rét chiếm 75%, sốt rét ác tính chiếm 80% và tử vong sốt rét chiếm 85% so với toàn quốc; đặc biệt là sự gia tăng của bệnh sán lá gan lớn tại một số tỉnh miền Trung trong thời gian gần đây cũng là những thách thức không nhỏ trong công tác thống kê, phân tích số liệu dự báo nguy cơ xảy ra dịch và quản lý tốt nguồn bệnh tại khu vực.
Trước thực trạng tình hình sốt rét và các bệnh ký sinh trùng tại khu vực, thực hiện Quyết định của Thủ tướng chính phủ số 112/2001/QĐ-TTg ngày 25/7/2001 phê duyệt Đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005; Quyết định của Bộ Y tế số 714/QĐ-BYT ngày 4/3/2003 phê duyệt Dự án Công nghệ thông tin (CNTT),Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã triển khai dự án “Phát triển và ứng dụng Công nghệ thông tin tại Viện Sốt rét Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn” từ năm 2003 với mục tiêu triển khai các hoạt động CNTT và ứng dụng có hiệu quả các hoạt động của Viện nhằm nâng cao chất lượng trong công tác phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng cho cộng đồng; xây dựng phần mềm quản lý bệnh sốt rét, trang thông tin điện tử, lắp đặt mạng thông tin nội bộ (mạng LAN) để phục vụ cho hoạt động của Viện, kết nối đường truyền số liệu từ các tỉnh về Viện, giúp cho công tác chỉ đạo và quản lý hoạt động mạng lưới chuyên khoa thuộc 15 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên, tiến tới kết nối với mạng y tế dự phòng và toàn ngành y tế.
Với nguồn kinh phí hạn hẹp lấy từ nguồn vốn sự nghiệp, hàng năm Bộ Y tế đầu tư cho Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn khoảng 500 triệu đồng, bao gồm mua sắm trang thiết bị và triển khai các phần mềm ứng dụng, Viện đã giao cho Phòng Quản lý khoa học & Công nghệ thông tin chịu trách nhiệm triển khai thực hiện.
|
Phòng máy tính của Viện |
Ngoài 4 cán bộ tin học (trong đó có 2 đại học CNTT) chịu trách nhiệm về quản lý và kỹ thuật, Viện đã thành lập Ban quản lý dự án CNTT gồm 7 người đại diện cho các khoa chuyên môn và các phòng chức năng của Viện do Viện trưởng làm Trưởng Ban; Ban Biên tập Trang tin điện tử (Website) gồm 15 người đại diện cho các khoa, phòng được phân công trách nhiệm biên tập các chuyên mục đã được thiết kế trong sơ đồ site do Viện trưởng làm Trưởng Ban; Ban biên dịch gồm 5 người chịu trách nhiệm dịch bài từ tiếng Việt sang tiếng Anh do Trưởng Phòng Hợp tác quốc tế làm Trưởng ban; Ban kỹ thuật gồm 3 người chịu trách nhiệm về hình thức trình bày trang web và chuyển tải bài do Trưởng phòng Quản lý Khoa học và Công nghệ thông tin làm Trưởng ban. Về cơ sở hạ tầng được trang bị 3 máy chủ, 50 máy trạm; lắp đặt mạng LAN đến tất cả các khoa, phòng; lắp đặt đường truyền internet tốc độ cao ADSL; lắp đặt 1 phòng máy vi tính với 25 máy phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và truy cập internet. Với mô hình tổ chức và trang bị ban đầu như vậy, gần 4 năm qua Viện đã đạt được một số kết quả sau:
 |
Trang thông tin điện tử (Website): impe-qn.org.vn |
Trang thông tin điện tử (Website): impe-qn.org.vn
Ứng dụng công nghệ portal tiên tiến, thuận tiện trong việc cập nhật bài viết và việc bảo trì, bao gồm các chuyên mục chuyên ngành, các trang thông tin của các tỉnh trong khu vực, thể hiện bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh. Thời gian qua đã phục vụ tốt công tác trao đổi thông tin, chỉ đạo phòng chống sốt rét và các bệnh do côn trùng, ký sinh trùng truyền. Qua hơn 3 năm khai thác và sử dụng (2005-2008) Trang thông tin điện tử của Viện (www.impe-qn.org.vn) đã đem lại nhiều hiệu quả thiết thực trong việc chuyển tải các thông tin chuyên ngành với hàng ngàn bài viết và trên 1.200.000 lượt người truy cập. Các tin bài được cập nhật liên tục tập trung chủ yếu các chuyên đề về sốt rét, ký sinh trùng sốt rét, ký sinh trùng đường ruột, côn trùng truyền bệnh cùng những vấn đề dịch bệnh nóng bỏng và công tác chỉ đạo tuyến cơ sở; những tin tức sự kiện mới nhất về lĩnh vực chuyên ngành cũng như y tế chung ở trong nước và trên thế giới; các thông tin chuyên đề về dịch tễ học, ký sinh trùng học, côn trùng học, hóa sinh học, sinh học phân tử, nghiên cứu bệnh nhiệt đới; các thông tin nghiên cứu khoa học, ấn phẩm khoa học, chương trình/dự án phòng chống sốt rét, phòng chống các bệnh ký sinh trùng, đào tạo Kỹ thuật viên trung cấp tại Viện, hoạt động hợp tác quốc tế, các chỉ số thống kê cơ bản về diễn biến bệnh sốt rét và ký sinh trùng trong khu vực hàng tháng, hàng quý, hàng 6 tháng, hàng năm; chủ trương và chính sách về y tế của Đảng, Nhà nước và Bộ Y tế; hoạt động thường xuyên của Viện cũng như các tỉnh thuộc khu vực miền Trung-Tây Nguyên; công tác quản lý và các lĩnh vực khác có liên quan đáp ứng nhu cầu thông tin của đông đảo bạn đọc. Đây cũng là kênh truyền thông giáo dục-xã hội hóa công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Ngoài những thông tin nêu trên chuyên mục hỏi đáp cũng đáp ứng được phần nào nhu cầu của bạn đọc về các vấn đề quan tâm, gần đây Ban biên tập còn mở thêm các chuyên mục như tin vắn đáng chú ý với nhiều thông tin xã hội, chuyên mục Thầy thuốc Việt Nam với các danh nhân và tấm gương điển hình trong ngành y tế, góc thư giãn với những câu chuyện tiếu lâm và góc thơ dí dỏm giúp bạn thảnh thơi đầu óc sau những giời làm việc căng thẳng; các hoạt động dịch vụ khám chữa bệnh, dịch vụ diệt mối mọt và phòng chống vectơ cùng nhiều dịch vụ khoa học kỹ thuật khác.
Tuy nhiên bên cạnh kết quả đạt được, Trang tin điện tử của Viện vẫn còn một số mặt hạn chế như thông tin cập nhật đôi khi còn chậm, phần tin của các Trung tâm Phòng chống sốt rét/Trung tâm Y tế dự phòng các tỉnh trong địa bàn khu vực miền Trung- Tây Nguyên còn nghèo nàn và chưa được cập nhật thường xuyên; phần Website tiếng Anh chưa được khai thác và sử dụng. Chúng tôi sẽ cố gắng cải thiện những mặt hạn chế này trong thời gian tới và rất mong được tiếp thu ý kiến đóng góp chân thành và sự cộng tác chặt chẽ của toàn thể các bạn để Trang tin điện tử của Viện ngày càng hoàn thiện và hiệu quả; góp phần tích cực thực hiện các mục tiêu chiến lược quốc gia y tế về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân ở khu vực trọng điểm chiến lược kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.
 |
Phần mềm quản lý sốt rét MMS |
Xây dựng phần mềm quản lý sốt rét:
Để phục vụ tốt công tác quản lý bệnh sốt rét, dự báo dịch sốt rét, giảm tỷ lệ mắc và tử vong do sốt rét khu vực miền Trung-Tây Nguyên. Sau nhiều năm khảo sát; Viện đã mạnh dạn phát triển phần mềm quản lý sốt rét (MMS), cơ sở dữ liệu là SQL server 2000 chạy trên nền Windows, có tính năng bảo mật cao, dễ dàng trong việc nâng cấp. Ngoài việc quản lý số liệu sốt rét nó còn tích hợp các báo cáo về bản đồ (dựa trên hệ thống định vị toàn cầu GIS), dự báo dịch sốt rét, thống kê và phân tích xử lý số liệu trong nghiên cứu, điều tra dịch tễ sốt rét, cập nhật trực tiếp số liệu từ các tỉnh trong khu vực thông qua đường truyền internet; bảng, biểu đồ đánh giá sự phân bố về hành chính, phân vùng dịch tễ sốt rét, các phiếu theo dõi sốt rét ác tính và tử vong sốt rét…
Việc sử dụng các phương pháp thống kê, các phần mềm xử lý toán học giúp cho các nhà khoa học trong quá trình xử lý, phân tích số liệu nghiên cứu và dự báo tình hình sốt rét tại địa phương, nhất là các vùng sốt rét trọng điểm. Được sự tài trợ của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), cuối năm 2005 Viện đã tổ chức Khóa đào tạo “Ứng dụng dịch tễ học và Thống kê y học trong nghiên cứu khoa học” cho 27 học viên là cán bộ đại học, sau đại học làm công tác thống kê dịch tễ sốt rét tuyến tỉnh và tuyến Viện đã được đào tạo cơ bản từ các khóa trước đây thuộc khu vực miền Trung-Tây Nguyên về các kỹ năng thiết kế các loại hình nghiên cứu khoa học, ứng dụng một số phần mềm Stata, ArcView, MMS và xây dựng 4 đề cương nhóm để học viên thực hành ứng dụng khi trở về cơ sở. Từ năm 2003 đến 2008 đã được Bộ Y tế hỗ trợ kinh phí đào tạo 4 lớp Tin học nâng cao cho 90 học viên tại Viện, hiện nay trên 80% cán bộ viên chức cơ quan đã sử dụng thông thạo phần mềm máy tính và CNTT chuyên ngành.
Tuy nhiên phần mềm quản lý sốt rét (MMS) vẫn còn một số hạn chế về giao diện, vấn đề ứng dụng kết nối mạng với các tỉnh còn nhiều khó khăn do hệ thống máy tính không đồng bộ, chưa có đường truyền tốc độ cao, thời gian thực hành ứng dụng phần mềm quá ngắn do nguồn kinh phí đào tạo hạn hẹp…
Xây dựng phần mềm quản lý phòng khám bệnh chuyên khoa:
Phục vụ công tác quản lý bệnh nhân, trả lời kết quả xét nghiệm và thu viện phí tại phòng khám. Nhờ có phần mềm khám chữa bệnh Phòng khám của Viện đã giản tiện được các thủ tục hành chính, quản lý chặt chẽ hồ sơ khám chữa bệnh và các khoản thu dịch vụ theo quy định, tránh phiền hà cho người bệnh và nâng cao hiệu quả phục vụ.
Xây dựng hộp thư điện tử nội bộ:
Nâng cao chất lượng việc trao đổi thông tin giữa các Khoa, Phòng trong Viện; giúp Ban Lãnh đạo Viện chỉ đạo và thông báo kế hoạch hoạt động hàng tháng, hàng tuần, đồng thời tiếp cận nhanh các thông tin quản lý.
Hướng phát triển CNTT trong thời gian tới:
Viện tập trung hoàn chỉnh phần mềm quản lý sốt rét và xây dựng; phần mềm quản lý các bệnh về giun sán; phần mềm quản lý thuốc, vật tư, hóa chất tại các tuyến; phần mềm quản lý đào tạo, thư viện, thư viện điện tử, quản lý công văn…; đồng thời hỗ trợ các địa phương trong khu vực triển khai có hiệu quả các ứng dụng khoa học CNTT chuyên ngành để kịp thời dự báo và xử lý tình hình dịch bệnh.
|  |
Toàn cảnh Hội thảo | |
Kết quả ứng dụng CNTT tại các đơn vị y tế
Một số tồn tại cần khắc phục:
|
BS. Vũ Mạnh Tiến-Giám đốc Công ty tin học Y tế Toàn Cầu trình bày giải pháp Medisolf |
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong ứng dụng CNTT của các đơn vị y tế,Hội thảo đều thống nhất rằng nguồn nhân lực phục vụ CNTT còn thiếu và yếu, công việc chủ yếu hiện nay là bảo trì hệ thống mạng LAN, duy trì hoạt động website, các phần mềm ứng dụng đều phải hợp đồng với các công ty phần mềm. Từ đó dẫn đến việc bảo mật kém, phụ thuộc vào các công ty phần mềm, không nắm được mã nguồn (source code) nên rất khó khăn trong việc chỉnh sửa, nâng cấp phần mềm sau này. Vấn đề bản quyền hiện nay vẫn còn nan giải, việc đăng ký bản quyền giải pháp kỹ thuật các phần mềm đã triển khai đến nay vẫn chưa thực hiện xong, nếu xảy ra tranh chấp về sở hữu trí tuệ chẳng những phần mềm không được sử dụng mà còn rất có thể phải đền bù.
Việc xây dựng các phần mềm ứng dụng trong quản lý khám chữa bệnh cũng như quản lý dịch bệnh chưa có sự chỉ đạo thống nhất của Bộ Y tế, mỗi địa phương đơn vị tự xây dựng phần mềm theo nhu cầu thực tế công việc và ý tưởng của mình nên khó khăn cho việc kết nối hệ thống trong ngành y tế. Mặc dù Việt Nam đã gia nhập WTO và cam kết thực hiện các thỏa thuận về bản quyền nhưng kinh phí mua các phần mềm có bản quyền đến nay vẫn ít được chú trọng. Đến nay, hầu hết các máy tính tại Viện đều dùng các phần mềm vi phạm bản quyền, nếu trang bị phần mềm bản quyền kinh phí sẽ lên đến hàng trăm triệu.
Chế độ lương, ưu đãi cho đội ngũ cán bộ CNTT còn quá thấp so với mặt bằng chung của xã hội hiện nay, nên không thu hút được các cán bộ thực sự có năng lực. Trang thiết bị công nghệ thông tin rất nhanh xuống cấp và lạc hậu về công nghệ, số máy tính sau khi được các dự án cung cấp, bước đầu đáp ứng được nhu cầu sử dụng nhưng theo thời gian đã nhanh chóng hư hỏng mà không thể sửa chữa, thay thế, đòi hỏi phải có kế hoạch mua bổ sung kịp thời. Đội ngũ cán bộ viên chức tại Viện tuy được thường xuyên tập huấn, nhưng do không được đào tạo bài bản, chủ yếu là soạn thảo văn bản, nên khả năng đổi mới và áp dụng CNTT còn nhiều hạn chế, chưa nắm được các thủ thuật về bảo mật, phòng chống virus, sử dụng internet an toàn, xử lý một vài sự cố nhỏ… Người dùng vẫn chưa quen sử dụng hệ điều hành mã nguồn mở Linux, một số máy sau khi cài đặt lại phải gỡ bỏ; chưa có sự thống nhất các font chữ sử dụng trên toàn quốc trong soạn thảo văn bản cũng như các ấn phẩm nghiên cứu khoa học, phía Bắc thiên về sử dụng TCVN3 ABC (Vntime), phía Nam thiên về sử dụng VNI Windows (Vntimes), một số nơi lại thường sử dụng Unicode (Times New Roman), Bộ nên có ý kiến chỉ đạo thống nhất trong việc này để tiện lợi cho việc tổng hợp các văn bản mang tính đồng bộ.
Kết luận và đề nghị:
1. Việc ứng dụng CNTT trong quản lý ngày càng cho thấy những lợi ích to lớn không ai có thể phủ nhận được, Nhà nước cần đẩy mạnh phát triển các phần mềm trên mã nguồn mở. Hiện nay hầu hết các phần mềm đều viết trên hệ điều hành Windows, nếu sử dụng Linux hay các hệ điều hành mã nguồn mở khác không áp dụng được.
2. Bộ Y tế có phương án trang bị các phương tiện giao ban trực tuyến cho các đơn vị trực thuộc Bộ và một số tỉnh trọng điểm dịch bệnh để hạn chế thời gian tập trung hội họp thông qua hệ thống videophone, Webcam hoặc đường truyền tốc độ cao (ADSL). Cục Y tế dự phòng Môi trường cần phối hợp với các đơn vị có kinh nghiệm thực hiện xây dựng cơ sở dữ liệuliên thông các đơn vị y tế về lĩnh vực kiểm soát dịch bệnh và quản lý chuyên ngành.
3. Các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng cần có kế hoạch đánh giá lại hệ thống thông tin trong chương trình phòng chống sốt rét để hoàn thiện và nâng cao chất lượng của mạng lưới thu thập thông tin, xem xét lĩnh vực thống kê nào có thể áp dụng và nên thống nhất nâng cấp phần mềm MMS thành phần mềm quốc gia sử dụng trong chương trình phòng chống sốt rét.
4. Các ngành nên thống nhất trong việc phát triển phần mềm, tránh tình trạng manh mún như hiện nay, cần đầu tư xây dựng các trung tâm công nghệ cao. Các phần mềm đã được xây dựng và ứng dụng có hiệu quả trong từng lĩnh vực cần được Bộ Y tế cho phép nghiệm thu và nâng cấp thành phần mềm hệ thống để tránh tình trạng tản mạn và lãng phí trong chi phí xây dựng phần mềm.
5. Có kế hoạch cung cấp trang bị các thiết bị CNTT cho các đơn vị ứng dụng đạt hiệu quả và tập huấn cho cán bộ quản trị mạng nhằm sử dụng và quản lý tốt các phần mềm đã được triển khai. Cần có Dự án đầu tư thí điểm ứng dụng Công nghệ thông tin quản lý dịch bệnh ở khu vực có tình hình sốt rét và các bệnh ký sinh trùng nặng và phức tạp như khu vực miền Trung-Tây Nguyên.