Thực hiện Nghị quyết số 46/ NQ-TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới là củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị và cán bộ; ngành y tế tỉnh Thái Nguyên đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng và củng cố mạng lưới cơ sở.
1. Sơ lược về đặc điểm kinh tế-xã hội tỉnh Thái Nguyên:
Thái Nguyên thuộc miền núi, cách thủ đô Hà Nội 80 km về phía Bắc có diện tích 3541 km2 với dân số 1,1 triệu người; dân tộc Kinh (75%), dân tộc Tày, Nùng (15%), còn lại là các dân tộc khác. Phân bố hành chính gồm 7 huyện (l huyện vùng cao, 4 huyện vùng núi, 2 huyện trung du), 1 thành phố và 1 thị xã; 180 xã/phường/thị trấn. Thái Nguyên là đầu mối giao thông của một số tỉnh miền núi vùng Đông Bắc với Hà Nội và là trung tâm đào tạo lớn thứ 3 của toàn quốc (sau Hà Nội và T.P Hồ Chí Minh) với 6 trường đại học (thuộc Đại học Thái Nguyên), trên 15 trường Cao đẳng & Trung học chuyên nghiệp; trong đó có Trường Đại học Y và trường Cao đẳng Y tế. Về giáo dục đã phổ cập giáo dục Trung học cơ sở, tỷ lệ người đi học chiếm trên 25%; tỷ lệ sinh thô năm 2006 là 13,77%; suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi năm2005 là 26,9%.
Cơ cấu kinh tế của tỉnh là công nghiệp-dịch vụ-nông lâm ngư nghiệp, trong đó Khu gang thép Thái Nguyên là công nghiệp nặng đầu tiên ở nước ta. Theo niên giám thống kê năm 2006 tỷ lệ hộ nghèo 24,35%; thu nhập bình quân 7 triệu đồng/người/ năm.
2. Thực trạng về y tế tỉnh Thái Nguyên:
Y tế tuyến trung ương trên địa bàn: Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên trực thuộc Bộ Y tế có 560 giường năm 2006 và sẽ phát triển 800-1000 giường năm 2010; nhiệm vụ chính là khám chữa bệnh cho nhân dân tỉnh Thái Nguyên và các tỉnh lân cận. Trường Đại học Y Thái Nguyên thuộc Đại học Thái Nguyên đào tạo Bác sĩ, Dược sĩ đại học, Chuyên khoa I, Thạc sĩ, Tiến sĩ y khoa cho các tỉnh miền núi phía Bắc với lưu lượng gần 4000 sinh viên chính qui/năm.
Các đơn vị y tế do tỉnh quản lý:
Tuyến tỉnh có 8 bệnh viện trực thuộc Sở Y tế với 1290 giường bệnh năm 2006, dự kiến phát triển 1790 giường bệnh năm 2010; trong đó có 3 bệnh viện đa khoa hạng II, 3 bệnh viện chuyên khoa hạng II (y học cổ truyền, tâm thần, lao), 2 bệnh viện chuyên khoa hạng III (mắt, điều dưỡng & phục hồi chức năng); 7 đơn vị dự phòng tuyến tỉnh (Trung tâm y tế dự phòng, Trung tâm phòng chống HIV/AIDS, Trung tâm sức khoẻ sinh sản, Trung tâm kiểm nghiệm, Trung tâm truyền thông GDSK, Trạm phòng chống lao (lồng ghép với Bệnh viện lao), Trạm tâm thần (lồng ghép với Bệnh viện tâm thần); Trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên với lưu lượng tuyển sinh chính quy 1000-1200 sinh viên/ năm.
Tuyến huyện có 7 bệnh viện huyện và 2 nhà hộ sinh thuộc TP. Thái Nguyên và thị xã Sông Công với tổng số giường bệnh là 730 giường năm 2006, dự kiến phát triển 800 giường năm 2010, các bệnh viện tuyến huyện đều là hạng III. Năm 2006, 9/9 huyện đã thành lập Phòng Y tế trực thuộc UBND huyện với biên chế 5 cán bộ/huyện quản lý 180/180 trạm y tế xã. 92,36% thôn bản có nhân viên y tế được đào tạo theo chương trình Bộ Y tế đang hoạt động. Chưa thành lập Trung tâm y tế dự phòng tuyến huyện (Đội Y tế dự phòng và Đội Sức khỏe sinh sản huyện vẫn thuộc Trung tâm y tế huyện).
Hệ thống y tế các ngành và y tế ngoài nhà nước:
Địa bàn tỉnh có 1 Bệnh viện Quân y với 200 giường bệnh, 8 bệnh xá của Quân khu I, các Sư đoàn, Lữ đoàn, đội phòng dịch Quân khu và 4 nhà máy quốc phòng; Nhà máy Y cụ số II liên doanh với Nhật và gần 120 cơ sở y tế nhà máy, khai thác mỏ, doanh nghiệp, trường học; Trung tâm chỉnh hình (thuộc ngành Lao động -TBXH)
Hệ thống Y tế ngoài nhà nước có gần 400 cơ sở, trong đó có 1 bệnh viện tư nhân, 7 doanh nghiệp Dược, 5 phòng khám đa khoa, còn lại là các nhà thuốc, đại lý thuốc và cơ sở hành nghề y, y học dân tộc.
Một số chỉ số về tổ chức, biên chế: với mạng lưới y tế như trên, hiện nay có 2475 giường bệnh, tỷ lệ giường bệnh/1 vạn dân là 22,58. Tổng số cán bộ y tế là 3.742 người (tuyến xã 879 người), tỷ lệ cán bộ y tế/1 vạn dân là 34,13% (toàn quốc là 29,85); tổng số bác sĩ 941 người (tuyến xã 207 người), tỷ lệ bác sĩ/ 1 vạn dân là 8,85 (toàn quốc là 5,88). Tổng số Dược sĩ Đại học là 44 người, tỷ lệ Dược sĩ đại học/1 vạn dân là 0,4 (toàn quốc là 0,77)
3. Hệ thống y tế tuyến xã/phường/thị trấn:
Tổ chức, biên chế, chế độ chính sách y tế xã:
Có 879 cán bộ đang công tác tại tuyến xã (bình quân 4,88 người/trạm), trong đó có 207 bác sĩ (bình quân 1,15 bác sĩ/xã); số còn lại là trung học và cao đẳng y, chỉ có 14 người là trình độ sơ học ( y tá, dược tá). Trên 50% số bác sĩ tuyến xã là hệ chuyên tu và hầu hết là trạm trưởng y tế xã; 40% cán bộ y tế xã là đảng viên; 100/107 bác sĩ xã là nữ và gần 50% số bác sĩ là người dân tộc thiểu số.
Tất cả các trạm y tế xã đều có y sĩ sản nhi hoặc nữ hộ sinh trung học, hầu hết cán bộ y tế tuyến xã đều được đào tạo bổ xung đỡ đẻ và thực hiện các dịch vụ sức khỏe sinh sản. Mỗi xã có 1 cán bộ y tế xã được đào tạo về y tế trường học,1 cán bộ đào tạo thêm về dược tá để bán thuốc và 1 cán bộ đào tạo thêm về y học cổ truyền. Cán bộ y tế tuyến xã được hưởng lương và các chế độ theo QĐ 58/TTg, hàng năm mỗi trạm y tế xã được cấp 10 triệu động để chi phí hồ sơ, giấy tờ, điện, nước... Cán bộ y tế xã đi họp, công tác chưa có công tác phí, tiền trực của y tế xã được thực hiện theo quy định chung.
Hiện nay 175/180 xã có nhà trạm y tế còn lại 5 thị trấn trạm y tế xã đang ở cùng UBND thị trấn. Các trạm y tế đều đã được trang thiết bị dụng cụ y tế cơ bản, song vẫn còn thiếu so với nhu cầu, năm 2006 có 78/180 (43,3%) xã đạt chuẩn y tế quốc gia.
Một số kết quả hoạt động của y tế tuyến xã:
Liên tục nhiều năm không có dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn tỉnh, tỷ lệ trẻ em mắc/chết các bệnh trạng diện tiêm chủng đã giảm hẳn. Số bệnh nhân sốt rét được phát hiện và điều trị giảm từ 2.279 người (2000) xuống còn 820người (2006), không có tử vong do sốt rét. Chương trình chống lao cấp II được thực hiện ở 180/180 xã, mỗi năm phát hiện và điều trị 800-1000 bệnh nhân lao, tỷ lệ điều trị khỏi bệnh lao trên 90% vượt mục tiêu Chương trình.
Bệnh nhân tâm thần phân liệt và động kinh được quản lý tại 180/180 xã với số bệnh nhân gần 5000 người, 153/180 xã được bảo vệ chăm sóc sức khoẻ tâm thần cộng đồng. Được công nhận Chương trình thanh toán phong quốc gia (1998) và Thanh toán phong theo tiêu chuẩn Tổ chức y tế thế giới (2004), tỷ lệ bệnh phong lưu hành 0,09/1 vạn dân (2000) giảm xuống còn 0,045/l vạn dân (2005); tỷ lệ trẻ em < l tuổi được tiêm chủng đầy đủ năm 2006 đạt 95,3% .
Từ năm 2000 tỉnh đã được công nhận thanh toán bệnh bại liệt và loại trừ uốn ván sơ sinh; 100% phụ nữ đẻ có sự chăm sóc y tế trong đó trên 90% đẻ tại cơ sở y tế. Các hoạt động phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em được duy trì ở 180/180 xã, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em tính theo cân nặng dưới 5 tuổi giảm từ 34,88% (2000) xuống còn 26,9% (2005); tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi còn 16,4 phần nghìn và tỷ lệ tử vong trẻ dưới 1 tuổi còn 12,2 phần nghìn (2005).
180/180 xã thực hiện khám chữa bệnh cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi;160 trạm y tế xã phường và 40 cơ sở y tế nhà máy, trường học, doanh nghiệp thực hiện khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT; 172/180 trạm y tế xã có quầy thuốc, các xã đều có vườn thuốc hoặc chậu thuốc trồng các loại cây thuốc mẫu.
Số người dân được chăm sóc y tế trong các cơ sở y tế nhà nước từ tuyến xã trở lên là 1,43 lần/người (2005) và 1,64 lần/ người (2006); trong đó ở tuyến xã là 1,04 lần/người (2006).
Các khó khăn, tồn tại:
Cơ sở vật chất của các trạm y tế thiếu và hư hỏng, nhiều trang thiết bị thiếu như tủ đầu giường, đèn khám bệnh, máy điện châm, máy hút chạy điện, kính hiển vi, dụng cụ khám chuyên khoa ngũ quan; chưa có nguồn kinh phí để xây dựng và mua trang thiết bị cho y tế xã.
Tình hình mắc mới HIV vẫn tăng, hiện nay có 2.444 người nhiễm, trong đó chuyển sang AIDS trên 500 người và đã tử vong trên 300 người. Vấn đề quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường là quá sức với biên chế và trang bị y tế xã.
Chế độ lương và phụ cấp cho y tế xã và y tế thôn bản quá thấp (thôn bản 40.000đ/ người/ tháng), chưa có chính sách để thu hút và ổn định cán bộ y tế các xã vùng sâu, xa, một số bác sĩ tuyến xã đã xin thôi việc để làm việc nơi khác.
3. Mục tiêu, giải pháp và các kiến nghị:
Mục tiêu: Mỗi năm xây dựng thêm 10-15% số xã đạt chuẩn y tế quốc gia để đến năm 2010 toàn bộ các xã trong tỉnh đạt chuẩn y tế quốc gia.
Các giải pháp:
- Giao kế hoạch hàng năm cho các huyện chỉ tiêu xây dựng xã theo các chuẩn y tế quốc gia để các địa phương chủ động, sử dụng các nguồn lực từ các chương trình và sự đóng góp của nhân dân.
- Sử dụng một phần ngân sách nhà nước, giao qua Phòng y tế huyện để bổ xung trang thiết bị cho các trạm y tế xã(tập trung các xã xây dựng chuẩn).
- Có phụ cấp lương cho bác sĩ xã hệ số từ 1-1,5 và khi các Bác sĩ xã đi học được hưởng kinh phí hỗ trợ đào tạo từ nguồn ngân sách của tỉnh như cán bộ nhà nước (hỗ trợ từ 6 -10 triệu đồng cho 1 Bác sĩ CKI hoặc Thạc sĩ).
- Đào tạo bổ xung cho toàn bộ cán bộ y tế đang công tác tại xã còn chưa thành thạo về đỡ đẻ, các dịch vụ sức khỏe sinh sản và chăm sóc trẻ em; đưa nội dung này vào chương trình đào tạo của Trường Cao đẳng y tế tỉnh và là 1 tiêu chuẩn để tuyển nhân viên y tế xã.
- Từng bước quản lý các thông tin y tế tuyến xã bằng phần mềm tin học .
- Phối hợp chặt chẽ với các ngành Bảo hiểm xã hội, Lao động thương binh-xã hội, giáo dục để vận động nhân dân tham gia các loại hình bảo hiểm y tế và thực hiện tốt các chế độ chính sách trong khám chữa bệnh (679.862 người BHYT đạt 62%).
- Phối hợp chặt chẽ với Hội đông y các xã để đưa hội viên đông y mở các phòng chẩn trị tại trạm y tế xã nhằm phát triển y học cổ truyền và tăng số lần người dân được chăm sóc y tế ( hiện tại 10% số xã đã kết hợp y tế xã với Hội đông y)
Các kiến nghị:
- Đề nghị Bộ Y tế xây dựng và sớm trình Chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng các trạm y tế xã theo tiêu chuẩn trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, vì hiện nay Bộ mới đưa ra được tiêu chuẩn của xã chuẩn còn chưa có các giải pháp, nhất là giải pháp về tài chính để thực hiện.
- Đề nghị Bộ Y tế phối hợp với Bộ Giáo dục & Đào tạo chỉ đạo bổ xung chương trình đào tạo cho cán bộ y tế công tác ở tuyến xã, vì một nhân viên y tế tuyến xã trong phiên trực không thể chỉ làm một vài chuyên khoa mà phải làm được mọi kỹ thuật y tế cơ bản, nhất là đỡ đẻ, cấp cứu.
- Đề nghị Chính phủ nghiên cứu, bổ xung QĐ số 58 TTG ngày 3/2/1994 vì qua trên 10 năm sự phát triển về nhu cầu chăm sóc y tế của người dân, sự phát triển khoa học kỹ thuật, kinh tế xã hội cần có những nội dung thay đổi như biên chế y tế xã tối thiểu phải 5-l0 người; có cơ chế để xắp xếp, điều động cán bộ y tế xã lên các tuyến trên và ngược lại; có chính sách về lương để thu hút bác sĩ về công tác ổn định ở tuyến xã.
- Đề nghị nâng phụ cấp y tế thôn bản lên 100.000 đồng/ người/ tháng (hiện nay là 40 nghìn đồng/ người/ tháng).