Nhiều năm qua, công tác phòng chống sốt rét ở nước ta đã đạt kết quả giảm mắc, giảm chết và hạn chế dịch sốt rét theo mục tiêu đề ra; các biện pháp ngăn chặn nguy cơ sốt rét quay trở lại được triển khai tích cực nhằm đảm bảo duy trì thành quả. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả thực sự, chiến lược phòng chống và loại trừ sốt rét trong những năm đến cần có môi trường kinh tế-xã hội bền vững cùng sự quan tâm của xã hội.
Trên thực tế, nơi có tỷ lệ nhiễm bệnh sốt rét cao thường là các vùng rừng núi, có địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn nhất là mùa mưa lũ; có thảm thực vật và khí hậu thuận lợi cho sự phát triển, duy trì sự hoạt động của muỗi truyền bệnh sốt rét. Đỉnh cao của mùa truyền bệnh thường rơi vào các tháng đầu và cuối mùa mưa, đây là thời điểm muỗi truyền bệnh sốt rét sinh sản và truyền bệnh với mật độ, cường độ hoạt động cao. Những vấn đề này đã gây khó khăn cho bệnh nhân đến được các cơ sở y tế để khám chữa bệnh và làm hạn chế điều kiện để cán bộ, nhân viên y tế xuống được địa bàn nhằm giám sát, quản lý nguồn bệnh sốt rét của người dân trong cộng đồng. Các yếu tố có liên quan thường phụ thuộc vào dân số và dân cư, hoạt động kinh tế các vấn đề về xã hội.
Về dân số và dân cư
Vấn đề dân số và dân cư là những khó khăn có thể gặp phải tại các vùng sốt rét lưu hành vì vùng này phần lớn có nhiều dân tộc đang sinh sống; trong đó dồng bào các dân tộc thiểu số chiếm đa số. Đồng thời còn có một lực lượng đồng bào ở vùng đồng bằng, thành phố đi xây dựng kinh tế, công nhân đến làm việc tại các công nông lâm trường xí nghiệp; các đơn vị bộ đội, biên phòng, công an đóng quân làm nhiệm quân sự, an ninh quốc phòng hoặc kinh tế. Ngoài ra, cũng phải kể đến một số người đi đến vùng này bằng hình thức di dân tự do, làm thuê, buôn bán, khai thác lâm thổ sản, đào đãi vàng, tìm đá quý, rà tìm phế liệu chiến tranh... và những đối tượng này thường không quản lý được. Đặc thù tại vùng rừng núi có mật độ dân cư thưa thớt và luôn luôn có sự biến động dân số giữa các vùng. Cũng tại đây, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên khá cao nhưng tỷ lệ tử vong thô, chủ yếu ở trẻ em dưới 5 tuổi không phải là ít theo cách nói “hữu sinh vô dưỡng”. Những đặc điểm đã nêu trên đã gây khó khăn trong công tác quản lý nguồn bệnh sốt rét và các hoạt động phát hiện, chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời bệnh nhân sốt rét ở cơ sở tuyến đầu.
Về hoạt động kinh tế
Vấn đề hoạt động kinh tế được triển khai thực hiện tại vùng rừng núi, nơi có sốt rét lưu hành nặng có thể làm tăng nguy cơ sốt rét do làm tăng chỗ cho muỗi truyền bệnh sinh sản như đào các mương thủy lợi, ao, hồ; chặt tre nứa để lại gốc, cấy ruộng bậc thang, trồng cói; trồng cao su, cà phê, tiêu, điều... Ngoài ra các hoạt động có khả năng làm tăng sự tiếp xúc giữa người và muỗi truyền bệnh như người dân đi vào các vùng sốt rét lưu hành nặng để buôn bán, khai thác vàng, đá quý; tìm trầm hương; xây dựng kinh tế mới; chiến sĩ biên phòng giữ gìn an ninh biên giới; bộ đội đi dã ngoại... Nhiều hoạt động với tính chất lao động đặc thù quá mức như bộ đội hành quân, công nhân xây dựng công trình giao thông, thủy lợi... với điều kiện ăn ở, sinh hoạt tạm bợ dẫn đến tình trạng giảm sức đề kháng của cơ thể. Những hoạt động về lĩnh vực kinh tế, an ninh quốc phòng nêu trên đã làm cho tình hình sốt rét ở các vùng sốt rét lưu hành trở nên phức tạp. Đây là nguyên nhân có thể gây ra những vụ dịch sốt rét với quy mô khác nhau, góp phần làm cho sốt rét diễn biến thêm trầm trọng.
Tuy nhiên, những hoạt động kinh tế của con người cũng có thể làm giảm nguy cơ sốt rét như khai thông mương máng, nắn dòng chảy của khe suối; lấp các vũng ao hồ, nước đọng; phát quang bụi rậm quanh nhà; tăng chăn nuôi đàn gia súc, thả cá ở các hồ nuôi; xây dựng hệ thống điện, đường, trường, trạm... là những yếu tố và điều kiện góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhiều người dân ở vùng rừng núi, nơi có sốt rét lưu hành nặng.
Mặc dù đã có nhiều hoạt động cải thiện tình hình nhưng thực tiễn hiện nay ở một số vùng rừng núi có sốt rét lưu hành nặng, các hoạt động kinh tế còn hạn chế do phương thức thực hiện và vốn đầu tư phục vụ cho sản xuất gặp khó khăn. Phần lớn đồng bào các dân tộc thiểu số chỉ sống dựa vào nương rẫy và khai thác lâm thổ sản; đồng bào ở đồng bằng, thành phố đến xây dựng kinh tế thường không có đủ vốn để phát triển sản xuất...
Theo kết quả điều tra năm 2012, trên toàn quốc có hơn 2,1 triệu hộ gia đình nghèo, chiếm tỷ lệ 9,60%. Miền núi Tây Bắc có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất là 28,52%; tiếp đến là miền núi Đông Bắc 17,39%; Bắc Trung Bộ 16,01%; Tây Nguyên 15%; duyên hải miền Trung 12,20%; đồng bằng sông Cửu Long 9,24%, đồng bằng sông hồng 4,89%; Đông Nam Bộ có tỷ lệ thấp nhất 1,27%. Các tỉnh có hộ gia đình nghèo còn cao như Điện Biên 38,25%; Lai Châu 31,82%; Hà Giang 30,13%; Cao Bằng 28,22%; Yên Bái 29,23%... Đối với hộ gia đình cận nghèo, trên toàn quốc có hơn 1,4 hộ; chiếm tỷ lệ 6,57%. Bắc Trung Bộ có tỷ lệ hộ cận nghèo cao nhất là 13,04%; tiếp đến là miền núi Tây Bắc 11,48%; duyên hải miền Trung 9,32%; miền núi Đông Bắc 8,92%; đồng bằng sông Cửu Long 6,51%; Tây Nguyên 6.19%; đồng bằng sông Hồng 4,58%; thấp nhất là Đông Nam Bộ 1,08%. Điều ngày ghi nhận ở các vùng nông thôn và miền núi, tỷ lệ hộ gia đình giàu có rất thấp; người thuộc hộ gia đình nghèo và cận nghèo vẫn còn chiếm tỷ lệ cao. Nếu tính theo tiêu chuẩn thu nhập của người dân ở vùng nông thôn, miền núi dưới 400.000 đồng/người/tháng là đối tượng nghèo và trên 400.000 đồng/người/tháng là đối tượng cận nghèo. Thực tiễn cho thấy, với số tiền thu nhập quá ít ỏi, người dân khó bảo đảm được cuộc sống.
Sự nghèo đói, túng thiếu sẽ dẫn đến tình trạng ăn không đủ, sức khỏe bị suy kiệt, giảm sức đề kháng của cơ thể và bị mắc các loại bệnh tật; trong đó có bệnh sốt rét. Với cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn, đồng thời do tập quán, thói quen sinh hoạt của một số đồng bào dân tộc thiểu số theo lối du canh, du cư, đi rừng, ngủ rẫy... ra khỏi khu vực được bảo vệ bằng những biện pháp can thiệp của y tế như dùng hóa chất xua diệt muỗi truyền bệnh; phát hiện, chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời bệnh đã tạo điều kiện khá thuận lợi để người dân bị nhiễm bệnh sốt rét; bệnh dễ chuyển thành sốt rét ác tính gây hậu quả tử vong do khó khăn trong công tác phát hiện, điều trì; đồng thời dẫn đến nguy cơ xảy ra dịch sốt rét tại địa phương.
Cũng chính do sự nghèo đói, thiếu thốn nên phần lớn các hộ gia đình nghèo và cận nghèo tại vùng rừng núi, nơi có sốt rét lưu hành nặng không đủ khả năng mua sắm và tiếp cận các phương tiện truyền thông như máy thu thanh, máy truyền hình, báo chí... mặc dù nguồn điện lưới đã đến được cơ sở nên điều kiện để nâng cao hiểu biết về phòng chống các loại bệnh tật nói chung và phòng chống bệnh sốt rét nói riêng còn gặp nhiều hạn chế. Ngoài ra ở một số nơi; trình độ dân trí, nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp; thậm chí không nói và không nghe được tiếng dân tộc Kinh nên cũng gặp những khó khăn nhất định trong việc tiếp thu. Mặc dù ngành y tế đã tích cực triển khai các biện pháp truyền thông giáo dục sức khỏe nhưng một số nơi người đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn tập quán, phong tục lạc hậu như cúng bái, dùng thuốc gia truyền hay thuốc dân tộc khi bị ốm đau, bệnh tật mà không chịu đến cơ sở y tế để khám chữa bệnh.
Tất cả các vấn đề về hoạt động kinh tế đã nêu trên là những yếu tố gây sự cản trở lớn cho công tác phát hiện, chẩn đoán, điều trị và quản lý bệnh nhân sốt rét. Mặt khác, kinh tế khó khăn cũng làm cho người bệnh và người nhà bệnh nhânđắn đo về khả năng phải chi trả những tốn kém khi phải đến điều trị tại cơ sở y tế như chi phí đi lại, mua thuốc hỗ trợ, người nhà đi theo phục vụ... Thực tiễn cho thấy ở một số nơi đã gặp phải những khó khăn trong việc nâng cao hiểu biết, nhận thức đối với đồng bào dân tộc thiểu số bằng công tác truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống sốt rét. Trong những năm gần đây, nhờ chính sách dân tộc và chương trình xóa đói giảm nghèo được triển khai thực hiện ở khu vực miền núi một cách tích cực đã góp phần giải quyết sự khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phòng chống sốt rét nhưng tình trạng này vẫn còn tồn tại ở một số cơ sở nên cũng làm hạn chế kết quả.
Các vấn đề về xã hội
Đối với những vấn đề về xã hội, ngoài các yếu tố có liên quan đến cộng đồng người dân đã nêu ở trên; một điều không thể không đề cập đến là trình độ chuyên môn của cán bộ, nhân viên y tế cũng như cán bộ chính quyền cơ sở ở một số nơi còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác và không được thường xuyên cập nhật các thông tin phòng chống sôt rét cần thiết nên hạn chế kết quả. Tại những vùng có khó khăn về kinh tế; cán bộ, nhân viên y tế kể cả cán bộ chính quyền cơ sở do chế độ tiền lương quá ít ỏi, bị chi phối bởi cuộc sống thiếu thốn của bản thân cũng như gia đình nên thiếu tích cực, nhiệt tình với công việc. Vì vậy đã thực hiện hạn chế các biện pháp phòng chống sốt rét cho chính bản thân họ và gia đình. Từ đây, cộng đồng người dân đã thiếu tin tưởng, mất lòng tin đối với đội ngũ cán bộ vì không có tấm gương để họ nhìn vào, giúp thay đổi hành vi y tế; trong đó có công tác phát hiện, chẩn đoán và điều trị sớm bệnh sốt rét tại cộng đồng. Hiện nay những mặt hạn chế này đã được cải thiện, thay đổi theo chiều hướng thuận lợi hơn khi các chế độ chính sách cho cán bộ, nhân viên y tế và cán bộ chính quyền được tăng cường. Đồng thời trong chiến lược phòng chống bệnh sốt rét trước đây, chiến lược phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét hiện tại tại nước ta, không thể phủ nhận vai trò tham gia của các ban, ngành, đoàn thể và sự hưởng ứng tích cực của cộng đồng người dân ở tại vùng sốt rét lưu hành; đây là lực lượng không thể thiếu để phối hợp triển khai thực hiện các biện pháp phòng chống sốt rét có hiệu quả.
Ngoài ra, vấn đề cơ bản cho sự phát triển của xã hội ở miền núi có sốt rét lưu hành là nguồn điện cung cấp cho sinh hoạt, sản xuất; hệ thống giao thông đi lại, vận chuyển hàng hóa; cơ sở trường học để nâng cao dân trí; trạm y tế phục vụ việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe người dân... là yêu cầu cần có và bắt buộc. Tình trạng thiếu thốn cơ sở hạ tầng này những năm trước đây như nhiều xã, thôn bản chưa có điện; đường giao thông, đi lại khó khăn về mùa mưa lũ; cơ sở trường học, trạm y tế còn tạm bợ đã được khắc phục nhiều; tuy nhiên tại một số nơi có sốt rét nặng ở vùng sâu, vùng xa vẫn chưa được đáp ứng đầy đủ. Một đặc thù cũng cần được đặt ra là địa bàn thổ nhưỡng của các huyện, xã, thị trấn, thôn bản miền núi có sốt rét lưu hành thường rộng; dân cư sống thưa thớt, không tập trung nên những hoạt động của ngành giáo dục và y tế khó tiếp cận, bao phủ được toàn diện.
Những năm gần đây, các chương trình xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ những xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn được triển khai thực hiện để khắc phục vấn đề tồn tại của xã hội nêu trên đã góp phần cho công tác phòng chống sốt rét đạt được kết quả khả quan. Điều này đã khẳng định sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đã có ảnh hưởng vô cùng quan trọng đối với các hoạt động phòng chống bệnh sốt rét tại nước ta trong thời gian qua. Tuy vậy, muốn công tác phòng chống sốt rét tiếp tục đạt được hiệu quả tốt thì cần phải có môi trường kinh tế-xã hội phát triển một cách bền vững nhất là trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang chuyển từ chiến lược phòng chống sốt rét sang chiến lược phòng chống và loại trừ sốt rét theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).