Giảm tỷ lệ suy duy dinh dưỡng trẻ em là một trong những chỉ tiêu cần đạt được vào năm 2015 của Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs_Millennium Development Goals) được 189 quốc gia thành viên của Liên Hiệp quốc trong đó có Việt Nam cam kết phấn đấu thực hiện. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu này ở nước ta là hết sức khó khăn.
Theo mục tiêu Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng quốc gia đến năm 2015 và năm 2020: giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc xuống 14% và dưới 10% vào năm 2020; giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc xuống dưới 25% (năm 2015) và dưới 20% (năm 2020); khống chế tỷ lệ thừa cân béo phì ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc ở mức dưới 5%.
Kết quả thực hiện các mục tiêu này, theo báo cáo mới nhất của Bộ Y tế (2012) về kết quả thực hiện Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam về lĩnh vực chăm sóc sức khỏe trong đó có phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em thì tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 41% (năm 1990) xuống còn 16,2% (năm 2012), hoàn thành mục tiêu trước thời hạn 3 năm. Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi giảm gần 3 lần, từ 59‰ (năm 1990) xuống còn 23,2‰ (năm 2012), tiếp cận với mục tiêu đặt ra đến 2015 là 19,3‰. Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi cũng giảm mạnh từ 44,4‰ (năm 1990) xuống còn 15,4‰ (năm 2012), gần đạt mục tiêu đề ra cho năm 2015 là 14,8‰. Tuy nhiên, theo kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng thấy trong khi tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em một số tỉnh đồng bằng đã giảm xuống mức thấp như thành phố Hồ Chí Minh (7,8%), Hà Nội (9,7%) !important; thì nhiều khu vực miền núi vẫn còn ở mức rất cao như Đắc Nông (31,9%), Kon Tum (31,5%), Quảng Bình (30,6%), Lai Châu (30,0%) !important; đặc biệt là tỷ lệ suy dinh dưỡng liên quan mật thiết với tình trạng đói nghèo của nười dân ở các vùng xa xôi, hẻo lánh, miền núi, hải đảo… Để đạt được các mục tiêu phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em theo thời hạn chót của MDGs vào năm 2015 là vấn đề không hề dễ dàng.
 |
Việt Nam có tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng hoặc thiếu dưỡng chất khá cao so với khu vực Đông Nam Á. Ảnh: internet.
|
Báo cáo kết quả tổng điều tra dinh dưỡng năm 2009-2010 do Viện Dinh Dưỡng Quốc gia dưới sự chỉ đạo của Bộ Y tế, sự hợp tác của Quỹ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF), Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Tổ chức Nông Lương Thể Giới (FAO) thông qua dự án lồng ghép của các cơ quan Liên Hiệp Quốc về Dinh dưỡng và An ninh lương thực do Quỹ đạt mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) hỗ trợ đã nêu rõ 1/3 trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thấp còi mà tình trạng này có thể để lại các hậu quả về khả năng nhận thức cũng như tiềm năng phát triển kinh tế xã hội nói chung. Suy dinh dưỡng thấp còi là đứa trẻ thấp hơn so với tuổi của chúng là hệ quả của tình trạng thiếu dinh dưỡng trường diễn xảy ra trong khoảng 3 năm đầu, để lại hậu quả hầu như không thể phục hồi trong quá trình phát triển của cuộc đời trẻ. Theo đánh giá của ông Rajen Kumar Sharma, Phó Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam các kết quả của cuộc điều tra đã cung cấp dữ liệu cơ bản về mức tiêu thụ thực phẩm,dinh dưỡng, thực hành chăm sóc dinh dưỡng cho bà mẹ và trẻ em, bao gồm các vấn đề liên quan đến vệ sinh an toàn thực phẩm đã cho thấy có sự thuyên giảm đáng kể tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ nhỏ trong những năm qua ở Việt Nam, tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn ở mức cao và có sự khác biệt về điều kiện kinh tế xã hội giữa các địa phương, nhất là các vùng sâu vùng xa khó tiếp cận. Như vậy, suy dinh dưỡng vẫn là thách thức lớn với nước ta, đặc biệt là ở các vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng thường xuyên bị ảnh hưởng thiên tai, bão lụt; trong khi chúng ta đang phải đối mặt với sự gia tăng của tình trạng thừa cân béo phì ở các vùng thành phố, đô thị. Thực trạng này đòi hỏi phải có những giải pháp can thiệp sớm và kịp thời nhằm đảm bảo cho trẻ em có cơ hội đạt được sự phát triển đầy đủ về mặt thể chất lẫn tinh thần.
Từ thực tế nêu trên, Đảng và Chính Phủ ta rất quan tâm đến việc giải quyết vấn đề này thông qua nội dung Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng 2011-2020 với chủ trương coi trọng nhân tố con người trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, vấn đề cải thiện tình trạng dinh dưỡng và giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em là một mục tiêu quan trọng đã được ghi trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Được chăm sóc tốt để không bị suy dinh dưỡng đồng thời cũng là một trong những quyền cơ bản của trẻ em trong luật Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em của nước ta. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng đã được các cấp chính quyền địa phương quan tâm và đưa vào các nghị quyết của đảng, chính quyền ở tất cả các cấp. Phòng chống suy dinh dưỡng đã trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng của các cấp chính quyền trong cả nước với những hỗ trợ cụ thể về nhân lực, vật lực cũng được hầu hết các tỉnh thực hiện một cách cụ thể.
Mặc dù đầu tư của Chính phủ và các cấp chính quyền cho chương trình dinh dưỡng đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên, như một quy luật tất yếu, khi tỷ lệ được hạ đến 30% trở xuống thì sẽ rất khó để duy trì được mức giảm như trước đây do những nguyên nhân đói ăn và bệnh nhiễm khuẩn được đẩy lùi đã thúc đẩy tăng trưởng chiều cao tốt hơn, nhưng những nguyên nhân khác về nuôi dưỡng cũng như môi trường vẫn còn là thách thức không nhỏ, đặc biệt cần kể đến tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng cho phụ nữ trước khi có thai đến thời kỳ sinh con, cho con bú và cho chính những trẻ em dưới 3 tuổi. Trẻ không được bú mẹ hoàn toàn trước 6 tháng tuổi cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tăng trưởng chiều cao. Do đó, các giải pháp để giảm suy dinh dưỡng thể thấp còi - nguyên nhân chính làm hạn chế tầm vóc chiều cao người Việt Nam đã được coi là mục tiêu ưu tiên trong Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020. Chiến lược xác định phương châm dự phòng là chính, chăm sóc dinh dưỡng cho bà mẹ từ phụ nữ tiền thai đến khi mang thai, nuôi con nhỏ và trẻ em dưới 5 tuổi cần được cung cấp đủ năng lượng khẩu phần và các chất dinh dưỡng; đặc biệt là cần vi chất dinh dưỡng đủ theo nhu cầu. Công tác xã hội hóa phòng, chống suy dinh dưỡng trẻ em cần được đẩy mạnh để tạo điều kiện cho trẻ tăng trưởng tốt. Đặc biệt của suy dinh dưỡng thể thấp còi ở nước ta là phân bố không đồng đều theo từng địa phương, từng khu vực do khác nhau về điều kiện kinh tế-xã hội, ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên cũng như thiên tai ở các vùng khác nhau; đòi hỏi các giải pháp ưu tiên khác nhau theo từng địa phương. Ở những vùng còn xảy ra mất an ninh lương thực-thực phẩm, cần coi trọng các giải pháp đảm bảo an ninh lương thực - thực phẩm hộ gia đình, khuyến khích sản xuất, tạo nguồn thực phẩm tại chỗ bổ sung cho bữa ăn và đẩy mạnh hoạt động giáo dục dinh dưỡng; ở những nơi điều kiện chăm sóc còn kém, cần có sự quan tâm nhiều hơn đến việc cải thiện các điều kiện chăm sóc như hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo, dịch vụ y tế ở các cơ sở... Công tác giáo dục dinh dưỡng cần đi đôi với hướng dẫn thực hành, xây dựng "văn hóa nuôi dưỡng" của mọi gia đình. Mỗi người phụ nữ trước khi làm mẹ cần được trang bị kiến thức, chủ động trong phòng, chống thiếu dinh dưỡng cho bản thân và cho con mình.
Nhìn chung bên cạnh can thiệp vĩ mô của Nhà nước như các chính sách xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, giáo dục đảm bảo quyền người phụ nữ, đảm bảo dịch vụ y tế như: tiêm chủng, theo dõi sức khỏe thường xuyên, đảm bảo vấn đề nước sạch, có chính sách thực phẩm an toàn và phát triển kinh tế hộ gia đình nghèo thì những can thiệp ngắn hạn cũng hết sức quan trọng. Đó là, cần chăm sóc dinh dưỡng phụ nữ ngay tuổi vị thành niên, đảm bảo không thiếu các vi chất dinh dưỡng, nhất là thiếu máu dinh dưỡng do thiếu sắt. Sau khi sinh, bà mẹ cần nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và tiếp tục cho trẻ bú đến ít nhất 1 tuổi; bà mẹ sau sinh uống vitamin A; trẻ từ 6 - 36 tháng tuổi được uống vitamin A định kỳ. Bên cạnh đó, các thực phẩm tiêu thụ hàng ngày cần được đa dạng, thay đổi thực phẩm thường xuyên để cung cấp đủ các vi chất dinh dưỡng; đặc biệt là phòng chống nhiễm các bệnh ký sinh trùng đường ruột (giun, sán) cũng rất quan trọng, cần tẩy giun định kỳ ở những nơi có nguy cơ cao. Tại hộ gia đình, cần sử dụng muối Iốt trong những bữa ăn hàng ngày để đảm bảo không bị thiếu Iốt, dẫn đến kém tăng trưởng và cá hậu quả về phát triển trí lực khác. Nếu thực hiện tốt các mục tiêu và chỉ tiêu phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, chúng ta không chỉ đạt được các mục tiêu MDGs vào năm 2015, mà còn đảm bảo sự phát triển giống nòi trong tiến trình hội nhập.
  !important;