Nhiều người thường ác cảm khi nghe nói đến bia, rượu trong khi nó có tác dụng kích thích tiêu hóa, ăn ngon miệng, có lợi cho sức khỏe và là thức uống không thể thiếu trong bất kỳ bữa cơm giao tiếp nào nhưng một khi sử dụng quá mức để “say xỉn”, mất kiểm soát, thậm chí dẫn đến tai nạn thương tích thì tác dụng của rượu bia và đồ uống có cồn trở nên ngược lại.
Chính vì lý do này, trên thế giới WHO kêu gọi các chính phủ cần hành động nhiều hơn nữa nhằm phòng chống bệnh tật và tử vong liên quan tới chất có cồn (WHO calls on governments to do more to prevent alcohol-related deaths and diseases), còn ở Việt Nam Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 244/QĐ-TTg ngày 12/2/2014 về chính sách quốc gia phòng chống tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn đến năm 2020 cho thấy trên phạm vi toàn cầu Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng như chính sách của Chính phủ ở trong nước cũng chỉ nhằm phòng chống tác hại của bia rượu với sức khỏe và tai nạn thương tích. Chứng tỏ bia rượu bia và đồ uống có cồn lợi ích với cuộc sống con người, chỉ có điều sử dụng thế nào cho đúng mức và đừng nên lạm dụng.

Hình 1
Lợi ích của bia, rượu và đồ uống có cồn
Theo Wikipedia, các loại đồ uống có cồn có lợi cho sức khỏe ví dụ dùng một lượng vừa đủ rượu vang đỏ (khoảng 1-2 ly mỗi bữa ăn) một thời gian dài có thể bảo vệ chống lại bệnh về động mạch vành của tim hoặc uống ở mức 20-40g đối với nam và 10-20 g đối với nữ có thể làm tăng tuổi thọ. Trước mỗi bữa ăn người ta thường uống 1-2 ly khai vị có tác dụng kích thích tiêu hóa, ăn ngon miệng. Uống bia rượu đúng mức cũng thắt chặt thêm tình bạn bè thân hữu làm câu chuyện tâm tình thêm nồng hậu như “trà dư, tử hậu” hoặc “tửu nhập ngôn xuất” làm cho cuộc vui thêm chút đậm đà thi vị vì vậy từ buổi tiệc chiêu đãi của nguyên thủ quốc gia đến bữa cơm khách của kẻ thường dân hạ tiện; từ các buổi liên hoan tổng kết đến đám cưới, đám tang đều phải có lý bia, ly rượu. Chúng ta hãy thử hình dung nếu đi thăm xuân mà không ly rượu chúc mừng năm mới thì tẻ nhạt đến nhường nào. Tuy nhiên, nếu chúng ta lạm dụng quá mức những tác dụng tốt của bia, rượu và đồ uống có cồn sẽ có tác dụng ngược trở lại. Theo WHO, một đơn vị chuẩn đồ uống có cồn chứa 10gam cồn tương đương với 1 chén rượu mạnh (400, 30ml); 1 ly rượu vang (13,50, 100ml); 1 cốc bia hơi (100, 330ml); 2/3 chai hoặc 1 lon bia (120, 30ml). WHO cũng khuyến cáo không quá 3 đơn vị rượu bia/ngày với nam và không quá 2 đơn vị rượu bia/ngày với nữ, nếu quá mức này được coi là lạm dụng hoặc “quá mức” cho phép.

Hình 2
Tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn
Các loại đồ uống có cồn và mức độ lạm dụng
Theo Wikipedia, các loại đồ uống có chứa cồn được chia theo nồng độ cồn bên trong như sữa chua (Kefir) 3%; bia 1-12%; rượu vang 7-14%; rượu mùi 15-30%; rượu mạnh 30-55%. Nồng độ của cồn trong máu được tính bằng miligam cồn có trong một gam máu (mg/g). Sau khi uống rượu, cơ thể có những phản ứng qua nhiều giai đoạn tương ứng với lượng cồn trong máu (blood alcohol concentration_BAC) với các mức độ
(i)Hưng phấn (BAC: 0,03-0,12%): tự tin hơn, liều lĩnh hơn; khả năng tập trung giảm, thời gian chú ý rút ngắn; mặt có thể đỏ ửng; giảm khả năng phán đoán, nhận xét, thường nghĩ gì nói đó, thiếu suy xét; gặp khó khăn trong các cử động khéo léo như viết, ký tên.
(ii)Kích động (BAC: 0,09-0,25%): khó nhận thức hay ghi nhớ vấn đề; phản ứng chậm; dễ mất thăng bằng; giảm sút các khả năng cảm giác như: nhìn mọi vật đều mờ ảo, nghe, nếm kém.
(iii)Lúng túng (BAC: 0,18-0,30%): có thể không biết mình là ai, đang làm gì; hoa mắt, chóng mặt, đi đứng lảo đảo; có những cảm xúc cực đoan: rất hung hăng hoặc rất nhút nhát, có khi rất trìu mến; cảm thấy buồn ngủ; lời nói không mạch lạc, câu chữ líu nhíu, giọng nói lè nhè; động tác rời rạc, kết hợp kém, chẳng hạn như chụp một vật được ném tới một cách rất khó khăn; khó cảm thấy đau đơn hơn so với người bình thường.
(iv)Sững sờ (BAC: 0,25-0,4%): hầu như không thể di chuyển, đi, đứng hay trả lời kích thích nói chung; lúc tỉnh, lúc mê; có khi ói mửa.
(v)Bất tỉnh (BAC: 0,35-0,50%): không còn ý thức; phản ứng của cơ thể giảm mạnh, đồng tử hầu như không phản ứng với ánh sáng; hơi thở chậm và yếu; nhịp tim chậm dần; có cảm giác lạnh (nhiệt độ cơ thể giảm xuống dưới thân nhiệt bình thường).
(vi)Tử vong (BAC: > 0,50%): ngộ độc rượu không hồi phục.

Hình 3
Tác động sức khỏe
Tác động tâm lý trực tiếp: cồn làm giãn các mạch máu nhất là mạch máu ngoại vi làm người uống có cảm giác ấm, khi đó việc điều chỉnh nhiệt lượng tự nhiên của cơ thể không còn hiệu lực nữa; đồng thời cồn lại có tác dụng gây mê vì thế mà giá lạnh không còn cảm nhận được do đó uống cồn trong mùa đông có thể dẫn đến lạnh cóng cho đến chết, cồn kết hợp cùng với các thuốc uống và các loại chất gây nghiện khác cũng gây hại mạnh hơn và nhanh hơn là chỉ uống rượu đơn thuần. Tác động đến bộ não và các tác hại khác: ngay khi chỉ uống một lượng vừa phải (0,2‰) nồng độ cồn trong máu tương đương với 0,3 l bia hoặc 100 ml rượu vang, tùy theo cân nặng và cấu tạo cơ thể cồn có tác động đến hệ thần kinh nhất là não bộ, góc nhìn bị thu hẹp và thời gian phản ứng chậm lại. Các nhà khoa học cho rằng uống 50g cồn hằng ngày sẽ để lại tác hại vĩnh viễn, ước chừng khoảng 100.000 tế bào não sẽ bị giết chết khi uống một ly bia; trong một cơn say rượu số lượng tế bào não chết có thể lên đến 10.000.000. Cồn cũng ảnh hưởng đến tình dục và khả năng có con, làm giảm tính tự kiềm chế và tăng hưng phấn tình dục, có tác dụng độc hại đến tinh hoàn và tinh trùng; người mẹ uống rượu trong thời kỳ mang thai dễ sinh ra các đứa trẻ có khuyết tật về trí tuệ. Tác động lớn nhất của các thức uống có cồn là các tác động lên hệ thần kinh với khối lượng từ trên 250 đến 500 ml đồ uống có cồn, tùy theo mức độ có thể gây các trạng thái sau:
(i)Mức độ nhẹ (< 20% alcol với khối lượng tùy theo trọng lượng và trạng thái cơ thể): chất cồn trong đồ uống có thể gây trạng thái bay bổng, không thể xác định được nhu cầu của chính mình, không biết mình cần gì và không cần gì gọi là trạng thái "ngà ngà say".
(ii)Mức độ trung bình (từ 20% đến < 45% alcol với khối lượng tùy theo trọng lượng và trạng thái cơ thể): chất cồn tác động đến các vùng sâu của hệ thần kinh, gây trạng thái trì trệ ở toàn bộ các thùy quan trọng điều khiển các giác quan của não; mất khả năng điều khiển lý trí và tình cảm, chỉ vận động theo bản năng gọi là trạng thái "say".
(iii)Mức độ nặng (> 45% alcol với khối lượng tùy theo trọng lượng và trạng thái cơ thể): cơ thể hoàn toàn mất điều khiển tại tất cả các tuyến thần kinh ngoại biên, mất cảm giác không gian và thời gian, mất ý thức, thậm chí hôn mê gọi là trạng thái "say sỉn".

Hình 4
Hạn định pháp luật
Thương mại và tiêu dùng
Trên thế giới, một số quốc gia đạo Hồi rượu bị cấm rất nghiêm ngặt như ma túy, ở nhiều nước châu Âu một số loại thức uống có cồn như absinth cũng đã bị cấm do tiềm năng nguy hiểm cao, ở Mỹ vẫn còn có một số nơi cấm rượu hoàn toàn như Weston của bang Massachusetts. Ở Đức và Thụy Sĩ, chỉ được phép bán các thức uống có cồn cho những người trên 16 tuổi nhưng với những đồ uống có cồn mạnh phải trên 18 tuổi. Ở Áo việc bảo vệ thanh thiếu niên thuộc về quyền hạn của các tiểu bang, ở Viên và Burgenland chỉ được phép uống rượu khi trên 16 tuổi trong khi những tiểu bang khác chỉ được phép uống các loại thức uống có lượng cồn 14% khi trên 16 tuổi, các loại có lượng cồn nhiều hơn chỉ được phép uống khi đủ 18 tuổi. Ở nhiều quốc gia khác, quy định ít nhất phải là 21 tuổi mới được phép sử dụng thức uống có cồn.

Hình 5
An toàn giao thông
Nồng độ cồn trong hơi thở được tính bằng milligam cồn có trong một lít hơi thở, tính chuyển đổi từ nồng độ cồn trong hơi thở sang nồng độ trong máu không chính xác hoàn toàn vì tỉ số thay đổi theo thời gian.
Trên thế giới, do bia rượu ảnh hưởng đến khả năng lái xe nên nhiều nước chỉ cho phép có một lượng cồn tối đa trong máu hay trong hơi thở như ở Áo (0,1‰ cho những người lái xe tải và xe buýt; 0,5 ‰ cho những người lái xe hơi và xe máy hai bánh); Đức (0,5 ‰ trong máu hoặc 0,25 mg/l trong hơi thở, trường hợp lái xe khác thường hoặc xảy ra tai nạn thì ngay từ nồng độ 0,3 ‰ đã có thể bị tội); Thụy Sĩ (0,5 ‰); một số nước khác như Hungary, Croatia, Bulgảia không cho phép có cồn trong khi lái xe (0,0 ‰).
Ở Việt Nam, theo Nghị định Chính phủ số 46/2016/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt có hiệu lực từ 1/8/2016 quy định các mức phạt liên quan đến uống rượu bia khi lái xe tùy theo mức độ:
- Nồng độ cồn < 50 mg/100 ml máu hoặc < 0,25 mg/1 lít khí thở, phạt tiền từ 2 đến 3 triệu đồng và tước giấy phép lái xe từ 1 đến 3 tháng.
- Nồng độ cồn > 50 mg đến 80 mg/100 ml máu hoặc > 0,25 mg đến 0,4 mg/1 lít khí thở, phạt tiền từ 7 đến 8 triệu đồng và tước giấy phép lái xe từ 3 đến 5 tháng
- Nồng độ cồn > 80 mg/100 ml máu hoặc vượt quá 0,4 mg/1 lít khí thở, phạt tiền từ 16 đến 18 triệu đồng và tước giấy phép lái xe từ 4-6 tháng.
Thực trạng uống rượu bia trên thế giới và Việt Nam
Theo Báo cáo toàn cầu về đồ uống có cồn và sức khỏe (global status report on alcohol and health) của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 2014, tác hại của rượu bia làm 3,3 triệu ca tử vong mỗi năm (5,9% tổng số tử vong) và khoảng 5,1% gánh nặng bệnh tật trên thế giới liên quan đến sử dụng chất có cồnchủ yếu ở những người trẻ và là nguyên nhân thứ 3 tác động sức khỏe toàn cầu. Thống kê gần đây của WHO cho thấy tỷ lệ nam giới trưởng uống rượu bia trên thế giới là 47,7%; trong đó khu vực tây Thái Bình Dương (59%), châu Mỹ (70,7%), châu Phi (40%), châu Âu (73%). WHO ước tính 4% số tử vong và 4,6% gánh nặng sức khỏe trên phạm vi toàn cầu liên quan đến rượu bia và kêu gọi mỗi quốc gia cần sớm ban hành chính sách phù hợp nhằm kiểm soát rượu bia và đồ uống có cồn.

Xếp hạng năng lực bia rượu của Việt Nam trên trường quốc tế
Theo Bộ Y tế (MOH), Việt Nam đứng hàng thứ 2 Đông Nam Á, thứ 10 châu Á và thứ 29 thế giới về lạm dụng rượu bia. Cả WHO và MOH đều cho rằng rượu bia là một trong những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe và tai nạn thương tích muốn giải quyết triệt để cần có sự góp sức của cả cộng đồng. Kết quả điều tra mới nhất của MOH trên 4.000 người 18-69 tuổi và 3.568 học sinh 14-17 tuổi tại 50 trường học các tỉnh/thành phố trong cả nước thấy rượu bia là 1 trong 10 nguyên nhân dẫn đến tử vong 77,3% nam giới và 11% nữ giới, sử dụng tới mức nguy hại là 44,2% , đặc biệt 45% sử dụng rượu bia khi lái xe là một trong những nguy cơ trực tiếp gây tai nạn giao thông, trong đó 20,8% nam vị thành niên lái xe sau uống rượu bia dẫn đến tai nạn thương tích phải nghỉ học hoặc nghỉ làm việc ít nhất một tuần trở lên. Theo MOH, tỷ lệ uống rượu bia ở người trưởng thành rất cao, nhóm tuổi trẻ tần suất uống ít hơn nhưng lượng nhiều hơn trong mỗi lần uống so với nhóm tuổi già; tuổi càng cao tần suất uống rượu bia càng tăng (1.9% ở nam giới 18-19 so với 31% người 50-69 uống rượu bia hàng ngày; những người trẻ tuổi bắt đầu uống rượu trước tuổi 15 thì về sau có thể phát sinh các vấn đề về bia rượu cao gấp 5 lần những người đến 21 tuổi mới uống; đó là khả năng nghiện rượu cao gấp 4 lần và khả năng tham gia bạo lực thể chất sau khi uống cao gấp 6 lần, khả năng tai nạn giao thông do uống rượu bia cao gấp 6 lần, khả năng bị chấn thương do uống rượu gấp gần 5 lần. Thêm vào đó, rượu bia là nguyên nhân gián tiếp của 200 loại bệnh tật, chấn thương và là nguyên nhân trực tiếp của ít nhất 30 bệnh như rối loạn tâm thần, gây ung thư, bệnh tim mạch, đái tháo đường, tác động tới bào thai, bệnh tiêu hóa, tổn thưởng hệ miễn dịch...
Báo cáo của WHO ước tính năm 2013, Việt Nam tiêu thụ khoảng 3 tỷ lít bia, cứ 4 đàn ông thì có 1 người sử dụng rượu bia và chất có cồn ở mức có hại (trung bình 6 cốc bia hơi cho mỗi lần uống). Tỷ lệ lái xe có sử dụng rượu bia ở Việt Nam cũng ở mức cao với số nạn nhân nam giới bị tai nạn giao thông nhập viện do sử dụng chất có cồn khoảng 25% đến 47%. Theo báo cáo của Viện pháp y Trung ương năm 2003, tỷ lệ nạn nhân tai nạn tử vong có nồng độ cồn trong máu vượt mức cho phép là 34%. Chính phủ Việt Nam tháng 2/2014 đã ban hành Chính sách quốc gia về phòng chống tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn đến năm 2020, trong đó yêu cầu việc thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm kiểm soát vấn đề lạm dụng chất có cồn một cách hiệu quả theo khuyến cáo của WHO (national counterparts for implementation of the global strategy to reduce the harmful use of alcohol).

Hình 6
Chiến lược và chính sách phòng chống tác hại của bia rượu
Chiến lược toàn cầu của WHO
Trước thực trạng lạm dụng bia rượu phổ biến trên thế giới hiện nay, WHO cho rằng cần có giải pháp mang tính chính sách làm giảm tác hại đồ uống có cồn phù hợp và hiệu quả hơn là tập trung vào vấn đề y tế công cộng. Bởi vì mức độ rủi ro liên quan đến tác hại của rượu bia ở các nước đang phát triển cao hơn các nước phát triển, nơi người dân ngày càng được bảo vệ bởi luật pháp và can thiệp toàn diện nên Chiến lược toàn cầu vể giảm tác hại của rượu bia được Hội đồng Y tế thế giới (WHA) lần thứ 63 thông qua vào tháng 5/2010, công nhận mối liên quan chặt chẽ giữa việc sử dụng rượu bia và phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời thể hiện cam kết của các quốc gia thành viên với WHO nhằm đạt hành động bền vững ở tất cả các cấp trên cơ sở một số sáng kiến toàn cầu và khu vực của WHO bao gồm cả kế hoạch hành động cho chiến lược toàn cầu về dự phòng và kiểm soát các bệnh không lây nhiễm (NCDs) được chứng nhận bởi WHA trong năm 2008. Chiến lược toàn cầu của WHO nhằm giảm tiêu thụ chất có cồn ở mức có hại bao gồm chính sách về giá kiểm soát quảng cáo, tài trợ, khuyến mại của chất có cồn; chính sách hạn chế điểm bán, giờ bán chất có cồn; chính sách kiểm soát lái xe sử dụng chất có cồn khi điều khiển phương tiện. Từ cơ sở Chiến lược này, WHO có thể tập hợp cách thức hoạch định chính sách y tế cộng đồng ở các nước đang phát triển cũng như thách thức ngày càng tăng trong chuyển giao kinh tế và xây dựng các chiến lược hiệu quả nhằm giải quyết các vấn đề y tế công cộng do tác hại của rượu gây nên. Theo đó, giải pháp khả thi của WHO trong chiến lược toàn cầu là cung cấp hồ sơ các lựa chọn chính sách và can thiệp để xem xét thực hiện ở mỗi quốc gia như một phần không thể tách rời của chính sách quốc gia cũng như quốc tế. Chiến lược toàn cầu cũng đặt ra những lĩnh vực ưu tiên hành động thúc đẩy, hỗ trợ và bổ sung liên quan ở các cấp địa phương, quốc gia, khu vực và toàn cầu. Chiến lược toàn cầu là kết quả của hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia thành viên của UN với WHO cùng các đối tác liên quan khác như các tổ chức xã hội dân sự và các nhà tài trợ kinh tế; các đối tác phát triển quốc tế, xã hội, khu vực tư nhân cũng như y tế công cộng và các viện nghiên cứu chuyên ngành cùng nhau làm việc hướng tới các mục tiêu chiến lược toàn cầu làm giảm hậu quả tiêu cực của việc sử dụng rượu bia và làm cho cộng đồng khỏe mạnh hơn, an toàn hơn và thoải mái hơn và có nhiều nơi phù hợp để sống, làm việc và vui chơi giải trí.

Hình 7
Chính sách của Việt Nam
Theo Quyết định số 244/QĐ-TTg, ngày 12/02/2014 của Thủ tướng Chính phủ về "Chính sách quốc gia phòng chống tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn đến năm 2020"với 7 mục tiêu thực hiện giảm dần tiến tới chấm dứt hoàn toàn rượu bia và đồ uống có cồn không đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng trên thị trường; giảm mức gia tăng tỷ lệ tiêu thụ rượu bình quân/người trưởng thành (15 tuổi trở lên)/năm quy đổi theo rượu nguyên chất theo từng giai đoạn từ 12,1% (2007-2010) xuống còn 10% (2013-2016) và 6,5% (2017-2020).
Mục tiêu cụ thể:
Mục tiêu đến năm 2016: 70% cộng đồng dân cư được tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền thông về tác hại của lạm dụng rượu bia và đồ uống có cồn, nhất là những bệnh lý phát sinh hoặc tăng nặng, 50% cộng đồng dân cư có nhận thức đúng về vấn đề này. 30% số người được sàng lọc phát hiện sớm; 25% được tư vấn, điều trị cai nghiện và chống tái nghiện tại cộng đồng; 20% được điều trị bệnh mãn tính phát sinh có liên quan đến rượu bia và đồ uống có cồn.
Mục tiêu đến năm 2020: 80% cộng đồng dân cư được tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền thông về tác hại của lạm dụng rượu bia và đồ uống có cồn, nhất là những bệnh lý phát sinh hoặc tăng nặng, 60% cộng đồng dân cư có nhận thức đúng về vấn đề này. 50% số người được sàng lọc phát hiện sớm; 40% được tư vấn, điều trị cai nghiện và chống tái nghiện tại cộng đồng; 30% được điều trị bệnh mãn tính phát sinh có liên quan đến rượu bia và đồ uống có cồn. Xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về phòng chống tác hại của lạm dụng rượu bia và đồ uống có cồn; phòng ngừa, ngăn chặn việc tiếp cận, sử dụng của người dưới 18 tuổi; cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, người làm việc trong các lực lượng vũ trang không sử dụng rượu bia và đồ uống có cồntrước và trong giờ làm việc, tại nơi làm việc, trong bữa ăn giữa hai buổi trong ngày làm việc và ngày trực; phòng ngừa người điều khiển phương tiện giao thông; phòng ngừa bạo lực gia đình, gây rối trật tự công cộng do lạm dụng rượu, bia và đồ uống có cồn.

Hình 8
Giải pháp thực hiện:
Giải pháp thực hiện của Chính phủ chỉ rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị đưa quy định cấm sử dụng rượu bia và đồ uống có cồn vào nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị và tổ chức, giám sát việc thực hiện; chính quyền địa phương tăng cường phát động cộng đồng không lạm dụng rượu bia và đồ uống có cồn trong đám tang, lễ hội, đám cưới; hộ gia đình không nấu rượu; không điều khiển phương tiện giao thông sau khi sử dụng rượu bia và đồ uống có cồn; kiểm soát và quản lý chặt chẽ hoạt động quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại rượu bia và đồ uống có cồn; nghiên cứu biện pháp phù hợp để cấm toàn diện hoạt động quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại rượu bia và đồ uống có cồn nồng độ từ 15 độ trở lên; áp dụng chính sách thuế phù hợp nhằm giảm sử dụng cũng như hạn chế buôn lậu và sử dụng rượu bia và đồ uống có cồn có chất lượng không đạt chuẩn. Cùng với đó là những giải pháp quy hoạch đồng bộ về sản xuất, kinh doanh đồ có cồn trong cả nước và từng địa phương; quản lý chặt chẽ việc cấp phép sản xuất rượu thủ công nhằm mục đích kinh doanh, quản lý quy trình sản xuất, tiêu chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm và nhãn hàng hóa đối với rượu thủ công; xây dựng cơ chế để tổ chức, cá nhân sản xuất rượu thủ công thuộc địa phận có làng nghề tham gia làng nghề sản xuất rượu; tăng cường kiểm soát đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh hộ gia đình, làng nghề, khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc; kiểm soát việc ghi nhãn đồ uống có cồn sản xuất, nhập khẩu để tiêu thụ tại Việt Nam nhằm gắn trách nhiệm của người sản xuất đối với sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng và ngăn chặn hàng giả, hàng kém chất lượng; nghiên cứu quy định việc in cảnh báo về tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn trên nhãn sản phẩm; tăng cường biện pháp kiểm soát, kiểm tra chất lượng, an toàn thực phẩm đối với đồ uống có cồn sản xuất trong nước, nhập khẩu và biện pháp phòng, chống đồ uống có cồn nhập lậu, giả và không bảo đảm chất lượng; kiểm soát hoạt động sản xuất, kinh doanh như: tăng cường kiểm tra và thực hiện nghiêm việc cấp phép kinh doanh rượu; không bán đồ uống có cồn cho người có biểu hiện say đồ uống có cồn và người dưới 18 tuổi.
Trách nhiệm thực hiện
Theo Quyết định của Chính phủ, Bộ Y tế có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh/thành phố và cơ quan, tổ chức liên quan hướng dẫn, tổ chức triển khai việc thực hiện chính sách quốc gia về phòng chống tác hại của lạm dụng rượu bia và đồ uống có cồn khác trong cả nước; đẩy mạnh hoạt động về truyền thông, giáo dục sức khỏe về tác hại của lạm dụng rượu bia và đồ uống có cồn. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm thực hiện phòng chống tác hại của lạm dụng rượu bia và đồ uống có cồn liên quan đến lĩnh vực phụ trách và thường xuyên theo dõi kiểm tra thực hiện; định kỳ sơ kết, tổng kết và báo cáo kết quả thực hiện về Bộ Y tế để tổng hợp báo cáo Chính phủ.
Thực hiện Quyết định của Chính phủ, Bộ Y tế (MOH) đang phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng “Luật Phòng chống tác hại của đồ uống có cồn” trình Quốc Hội phê duyệt nhằm góp phần ngăn chặn thiệt hại kinh tế, tổn thất sức khỏe do đồ uống có cồn gây ra, hướng tới một xã hội phát triển khỏe mạnh và bền vững. Tuy nhiên, trong văn bản soạn thảo quy định cấm bán rượu bia sau 22h gây nhiều tranh cãi trong dư luận về tính khả thi, MOH cho rằng một số điều luật về bia rượu ở nước ta tưởng là mới nhưng trên thế giới đã thực hiện từ lâu và có hiệu quả rõ rệt như quy định cấm bán rượu bia sau 22h hoặc cấm bán rượu cho trẻ vị thành niên, cấm quảng cáo rượu bia nơi công cộng nhất là trường học. Cũng như thế giới, văn bản “Luật Phòng chống tác hại của đồ uống có cồn” ở Việt Nam cần quy định rõ về độ tuổi được phép mua, sử dụng rượu bia và quy định kiểm soát quảng cáo, khuyến mại rượu bia trên các phương tiện truyền thông đại chúng là rất quan trọng nhằm hạn chế tác hại của sử dụng rượu bia đối với thanh thiếu niên.
Thay cho lời kết
Sử dụng bia rượu và đồ uống có cồn là sở thích chính đáng mang tính truyền thống không chỉ ở Việt Nam mà còn bất cứ quốc gia nào trên thế giới nhưng không có nghĩa là lạm dụng, người viết bài này cho rằng tất cả nam giới nên biết uống rượu vì “nam vô tửu như cờ vô phong” nhưng đừng nên lạm dụng rượu bia tới mức 77,3% như kết quả điều tra nêu trên. “Chiến lược toàn cầu vể giảm việc tác hại của rượu bia” của WHO cũng như "Chính sách quốc gia phòng chống tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn đến năm 2020" của Việt Nam mà MOH là cơ quan đầu mối dự thảo luật ban hành cũng nhằm bảo vệ sức khỏe và tính mạng của cộng đồng, đồng thời sử dụng rượu bia và đồ uống có cồn theo đúng nghĩa của nó.