Thời gian gần đây có nhiều thông tin về ký sinh trùng sốt rét khỉ truyền sang người ở Việt Nam, cần phải trả lời câu hỏi đặt ra: Liệu có khả năng các loài muỗi sốt rét thuộc nhóm An. leucosphyrus có thể tồn tại ở Việt Nam để lây truyền P. knowlesi từ khỉ sang người? Về khía cạnh bệnh học, sốt rét P. knowlesi có thể gây ác tính vàtử vong và sốt rét P. knowlesi ở người giờ đây là một vấn đề bệnh nhiệt đới chúng ta cần tiến hành nghiên cứu sây do tính lan rộng và đe dọa mạng sống nhân loại. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi muốn chia sẻ thông tin cập nhật và chung nhất từ y văn về loài ký sinh trùng mới này.
Đơn bào Plasmodium gồm nhiều loài có thể lây truyền sốt rét trên các loài khỉ một cách tự nhiên. Sự phát hiện ra người nhiễm phải ký sinh trùng khỉ Plasmodium knowlesi tại vùngBorneo, Malaysia đã làm thay đổi tiềm năng của một loài plasmodia vốn dĩ không phải đặc hữu cho con người lên gánh nặng bệnh tật và tử vong. Bệnh lây truyền từ động vật sang người lưu hành như một phần quan trọng cho nguy cơ sức khỏe con người phải đối mặt. Với hai báo cáo gần đây (tại tỉnh Ninh Thuận và Khánh Hòa, miền Trung Việt Nam) ấn bản trên y văn thế giới đã xác định có sự hiện diện P. knowlesi tại Việt Nam.
Phân tích hơn 1.100 trình tự của hệ gen ty thể, gen nhân và thành phần apicoplast từ các con tinh tinh và khỉ đột cho thấy rằng 99% họp nhóm thành 1 trong 6 nòi giống đặc hiệu với vật chủ, cũng cho thấy khác biệt loài Plasmodium trên đó trong giống phụ Laverania. Một trong các con khỉ đột miền tây gồm các ký sinh trùng xác định gần với P. falciparum. Phân tích trong cây phả hệ di truyền về trình tự hệ gen ty thể đầy đủ, P. falciparum hình thành nên giống nòi có cùng một nguồn gốc, một tổ tiên bên trong với ký sinh trùng khỉ đột.
Nói tóm lại, hiện tại nhiều khoảng trống về hiểu biết sốt rét truyền từ khỉ sang người đang được xem không những là y học thuần túy mà nhấn mạnh đến trong y học du lịch (travel medicine) và y tế công cộng (public health). Nhiều câu hỏi đặt ra dưới đây đã thể hiện vẫn đề còn bỏ ngõ đó:
  !important; i.Nguy cơ nào của P. knowlesi trên người được biết về vùng lan truyền bệnh? Không có một điều tra nào đánh giá tỷ lệ mắc thật sự trên con người và các điều tra đó vẫn còn hạn chế trên các quần thể đặc biệt;
  !important; ii.Các sốt rét khỉ khác nhiễm sang người tại Đông Nam Á như thế nào? Các điều tra về sinh học phân tử ở người nhiễm sốt rét đã được đầu tư đúng mực với 4 loài trước đây và P. knowlesi. Cần điều tra thêm và mở rộng là cần thiết để nắm bắt được quy mô cũng như vấn đề bệnh lây truyền từ động sang người như thế nào?
  !important; iii.Tỷ lệ mắc bệnh của sốt rét do P. knowlesi, P. cynomolgi và P. inui trên các con khỉ ở Đông Nam Á? Một số điều tra trên quần thể khỉ về Plasmodia không cho phép tiên đoán nguy cơ một cách thích hợp để quy kết bệnh trên cộng đồng người. Nguy cơ sốt rét truyền từ khỉ sang người chỉ có thể được làm rõ ở những nơi mà khỉ và muỗi cùng có mặt đồng thời. Các điều tra nên nhằm vào xác định nguy cơ trên các quần thể khác nhau của loài khỉ, chẳng hạn, khỉ ở vùng đã đô thị hóa so với vùng rừng cũng như suy xét mối liên quan với nguy cơ lan truyền sốt rét ở loài người;
  !important; iv.Có thể xảy ra sự lây truyền sốt rét của khỉ đến người khác hay không? Khả năng lan truyền Khả năng lây truyền từ người sang người của P. knowlesi chưa được xác minh trên thực địa. Trong điều kiện la bô, sự lan truyền đạt được có một ít trở ngại cũng như đối với P. cynomolgi;
  !important; v.Khỉ có khả năng ẩn chứa các loài Plasmodia của người không? Và vì điều này có thể đóng vai trò như ổ chứa KSTSR của người không? Ví dụ về P. simium và P. brasilianum (P. vivax và P. malariae) trên các con khỉ New World thay đổi khả năng này.
Bệnh sốt rét (SR) đã được biết từ thời cổ xưa đến nay, mặc dù cộng đồng trên toàn cầu đã nổ lực đẩy lùi căn bệnh này, song mọi cố gắng vẫn còn phải tiếp tục. Đến nay, SR vẫn được xem là gánh nặng y tế và ảnh hưởng trên 40% dân số thế giới tại hơn 108 quốc gia, đặc biệt vùng nhiệt đới từ Nam Mỹ đến Ấn Độ. Mỗi năm từ 300 - 500 triệu người mắc bệnh (90% con số ấy ở khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi, 2/3 số ca bệnh còn lại xảy ra ở 6 nước Ấn Độ, Brazil, Sri Lanka, Việt Nam, Colombia và đảo quốc Solomon).
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) dự đoán sẽ tăng 16% số ca sốt rét mỗi năm. Khoảng chừng 1.5-3 triệu người chết do sốt rét mỗi năm (85% ở châu Phi). Cứ mỗi 30 giây, ở châu Phi có một trẻ chết vì sốt rét, mỗi 12 giây trên thế giới có một người chết có liên quan đến bệnh sốt rét. Mỗi năm, số người chết do sốt rét bằng số chết do HIV/AIDS trong 15 năm cộng lại. Với 4 loài ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) cổ điển, các nhà khoa học và cộng đồng thế giới chưa thể giải quyết triệt để, thì mới đây các nhà khoa học trên thế giới cùng với các nhà ký sinh trùng Malaysia lại công bố thêm một loài KSTSR vốn từ lâu gây bệnh SR cho khỉ, nay có khả năng nhiễm và gây bệnh cho người P. knowlesi với tỷ lệ nhiễm tương đối cao và bệnh cảnh nghiêm trọng, thậm chí đã có ca tử vong, điều này dẫn đến trong tương lai sẽ làm tăng gánh nặng về bệnh.
Nguồn gốc của ký sinh trùng sốt rét ở người và 4 loài Plasmodium spp cổ điển
Nhóm tác giả Weimin Liu và cộng sự (2010) nghiên cứu đa trung tâm và đăng tải trên tạp chí Nature xác định nguồn gốc loài KSTSR vỗn dĩ từ lâu gây ra tử vong. Kết quả cho biết Plasmodium falciparum là loài ký sinh trùng lưu hành rộng nhất và có nguy cơ gây tử vong cao nhất ở người, song nguồn gốc và lịch sử tiến hóa của tác nhân vẫn đang còn tranh luận. Ở đây, nhóm nghiên cứu đã triển khai một chiến lược khuếch đại bộ gen đơn để xác định đặc điểm chi tiết của Plasmodium spp. Trình tự DNA trong các mẫu phân của các khỉ sống hoang dại. Trong số gần 3.000 mẫu thu thập tại thực địa khắp Trung Phi, các nhà khoa học đã thấy nhiễm Plasmodium trên loài tinh tinh Pan troglodytes và khỉ đột miền tây Gorilla gorilla, chứ không phải trên các khỉ đột miền đông Gorilla beringei hay loài vượn Pan paniscus. Nhiễm Plasmodium trên khỉ không đuôi lưu hành cao, phạm vi phân bố rộng và hầu như luôn luôn nhiễm phối hợp nhiều loài KSTSR khác.
Phân tích hơn 1.100 trình tự của hệ gen ty thể, gen nhân và thành phần apicoplast từ các con tinh tinh và khỉ đột cho thấy 99% họp nhóm thành 1 trong 6 nòi giống đặc hiệu với vật chủ, cũng cho thấy khác biệt loài Plasmodium trên đó có giống phụ Laverania. Một trong các con khỉ đột miền tây có KSTSR xác định gần với P. falciparum. Phân tích phả hệ di truyền về trình tự hệ gen ty thể đầy đủ, P. falciparum hình thành nên giống nòi có cùng một nguồn gốc, một tổ tiên bên trong với KSTSR ở khỉ đột. Các thử nghiệm và nghiên cứu này đã minh chứng rằng P. falciparum là có nguồn gốc từ khỉ đột chứ không phải loài tinh tinh, hay là nguồn gốc người cổ.
Sốt rét do đơn bào trong máu thuộc ngành Apicomplexa, giống Plasmodium gây ra. Từ trước đến nay, giới khoa học đã thừa nhận bệnh SR ở người chủ yếu do 4 loài P. falciparum, P. vivax, P. malariae, P. ovale gây ra, song trong số đó phần lớn là 2 loài P. falciparum và P. vivax chiếm một tỷ lệ cao trong cơ cấu, tuỳ vùng địa lý mà tỷ lệ hai loại này gây nhiễm ở người có khác nhau, có nơi tỷ lệ nhiễm P. vivax đến 80% và P. falciparum chỉ 15%, có nơi P. vivax chiếm 20-25%, đặc biệt loài P. falciparum đã gây SRAT và tử vong cao, dù gần đây đã công bố nhiều trường hợp tử vong do SR P. vivax do các nhà khoa học Ấn Độ báo cáo. Hai loài KSTSR còn lại tồn tại cũng có tỷ lệ thay đổi tuỳ theo vùng trên các châu lục.
Loài ký sinh trùng sốt rét mới gây bệnh sốt rét ở người
Các nhà khoa học từng biết một số tác nhân gây bệnh mới trổi dậy, lây truyền từ động vật sang người và ngược lại. Các quần thể linh trưởng hoang dã có “ổ chứa tiềm năng” lưu giữ và đóng vai trò nguồn gốc của tác nhân gây bệnh cho người, từ các virus đến các loài KST nói chung. Đến nay, các nhà khoa học đã phát hiện ít nhất 26 loài Plasmodium lưu hành trong các quần thể linh trưởng hoang dã. Nhiều loài trong số đó ở khỉ liên quan gần loài KSTSR gây bệnh ở người và một số trong chúng được biết là P. simium, P. brazilianum, P. cynomolgi, P. inui và P. knowlesi từng liên quan, biểu hiện triệu chứng ở người trong thực nghiệm hoặc nhiễm tự nhiên. Với loài P. knowlesi, gần đây đã trở thành vấn đề thời sự với rất nhiều nghiên cứu tập trung. Theo phân loại, P. knowlesi thuộc giới Protista, ngành Apicomplexa, lớp Aconoidasida, bộ Haemosporida, họ Plasmodiidae, giống Plasmodium, loài P. knowlesi. Trong 3 năm gần đây, một số báo cáo cho biết số ca mắc P. knowlesi ở người ghi nhận tăng dần do nhiều nghiên cứu quan tâm.
Cox-Sigh và cộng sự đã phát hiện ca SR P.knowlesi đầu tiên ở khỉ đuôi dài Macaca fascicularis khi nhập khẩu từ Singapore đến Ấn Độ vào năm 1931. Một năm sau, Knowles và Das Gupta đã thành công trong việc gây nhiễm thực nghiệm truyền P. knowlesi từ khỉ sang người. Năm 1966 bằng cách cho muỗi đốt máu có nhiễm KSTSR rồi cho đốt người, tác giả Granharm cũng đã chứng minh rằng các loài KSTSR ở khỉ như P. iuni,, P. knowlesi đều có khả năng truyền bệnh cho người. Ca bệnh nhiễm P. knowlesi ở người được mô tả đầu tiên vào năm 1965 tại Mỹ, trên một người lính trở về từ Malaysia. Đến năm 1971, chỉ có 2 trường hợp nhiễm P.knowlesi ở người được báo cáo (Chin, 1965 và Yap, 1971), cả 2 ca đều sống ở bán đảo Malaysia. Sau đó Cox-Sigh đã tiến hành nghiên cứu kéo dài từ tháng 3.2000 đến tháng 11.2002 tại Malaysia, Kết quả cho thấy rằng trong số 208 ca bệnh được chẩn đoán ban đầu là nhiễm P.malariae thì có đến 120 ca được xác định là P.knowlesi bằng kỹ thuật PCR lồng (nested PCR). Nhiều trường hợp nhiễm P. knowlesi sau đó cũng được phát hiện tại Kanip, Sarawak, Malaysia năm 2004. Vào năm này một ca bệnh do loài KSTSR này gây nên cũng được phát hiện trên một bệnh nhân làm việc trong rừng ở biên giới giữa Thái và Myanmar (Jongwutiwes và cs., 2000) và sau đó phát hiện ca bệnh có P. knowlesi tại Philippines.
Ca bệnh P. knowlesi đầu tiên ở người do nhiễm tự nhiên xảy ra năm 1965 ở khu rừng Malaysia. Các ước tính về tỷ lệ hiện mắc và phân bố các loài KSTSR ở các cộng đồng người nhiễm tại Malaysia đều nhờ vào chẩn đoán giêm sa. Từ năm 1998-2002, số bệnh nhân mới mắc SR hàng năm ở Sarawak, thuộc quần đảo Borneo, Malaysia là 2.496-3.155 trường hợp, trong đó P. vivax là loài chủ yếu (69.1%), tiếp đến P. falciparum (19.7%), P. malariae (9.4%) và chưa phát hiện và khẳng định trường hợp nào do P. ovale. Nghiên cứu của Singh B. và cộng sự bắt đầu vào tháng 3.2000, các nhà khoa học đã ghi nhận các khác biệt chính về các tỷ lệ của các loài Plasmodium được báo cáo ở Sarawak. P. vivax phân bố rộng rãi trong 9 vùng địa lý, trong khi P. falciparum lại chiếm ưu thế ở các vùng phía bắc và KSTSR được phát hiện gần giống như P. malariae được báo cáo chủ yếu ở các vùng trung tâm của Kapit và Miri. Tại Kapit, KSTSR được phát hiện hình thể giống như P. malariae chiếm tỷ lệ khoảng 1/5 số trường hợp SR năm 1999.
Dịch tễ học và trung gian truyền bệnh cho loài Plasmodium knowlesi
Nhiễm trùng loài P. knowlesi thường chỉ được xem là một loại KSTSR đặc thù cho khỉ đuôi dài Macaca fascicularis và khỉ đuôi heo Macaca nemestrina nhưng con người lại thường làm việc trong các vùng rừng và hiển nhiên có nguy cơ nhiễm bệnh. Với sự gia tăng tàn phá rừng ở các quốc gia Đông Nam Á, nhiều loài khỉ trở nên tiếp xúc gần gũi với con người. Vì thế ngày càng có nhiều người sống tại các khu vực ngoại ô bị nhiễm P. knowlesi. Loài này tìm thấy hầu hết ở các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt ở đảo Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Chúng dường như xảy ra tại các vùng mà trước đây báo cáo không có 4 loại KSTSR cổ điển, muỗi nhiễm cũng chỉ gặp giới hạn trong một vài cánh rừng, trong khi muỗi không nhiễm điển hình hay gặp ở các vùng đô thị nhưng lan truyền có thể xảy ra do sự đa dạng và tăng lên của quần thể muỗi tại đó, đặc biệt Malaysia và có vài báo cáo tại khu vực biên giới Thái Lan – Myanmar. 1/5 số ca SR được chẩn đoán tại Sarawak, Malaysian Borneo là P. knowlesi. Loài P. knowlesi ít lưu hành hơn ở châu Phi. Điều này có thể do nhiều người dân châu Phi mà chủ yếu là dân da đen Tây Phi thiếu kháng nguyên Duffy – một loại protein trên bề mặt hồng cầu giúp bảo vệ phần nào theo cơ chế “bệnh chống bệnh” chăng?
Dựa trên những nghiên cứu về dịch tễ của P. knowlesi và sự phân bố nhóm vector Anopheles Leucosphyrus, cho đến nay P. knowlesi được xem là loài KSTSR thứ 5 truyền bệnh ở người, mới chỉ lan turyền tại khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, do tình hình và trào lưu du lịch sinh thái đến các quvùng Đông Nam Á có lưu hành SR thì cũng có thể mang mầm bệnh về các quốc gia thuộc các châu lục khác là điều có thể.
Sự truyền bệnh SR từ loài khỉ đến người và người đến người qua trung gian muỗi có thể xảy ra trong điều kiện thực nghiệm. Liệu rằng có một ổ nhiễm về P. knowlesi ở vùng Kapit, đảo Borneo, Malaysia có thể góp phần quan trọng trong lây truyền từ người đến người hoặc từ khỉ đến người qua muỗi trung gian truyền bệnh thì chưa thấu đáo. Nhóm muỗi An.leucosphyrus có khả năng lây truyền P. knowlesi và có mặt ở vùng Kapit, vì là vật chủ tự nhiên của P. knowlesi - các loài khỉ đuôi dài (Macaca fascicularis) và khỉ đuôi lợn (Macaca nemestrina). Mặc dầu, hai loài khỉ này sống rất gần với con người ở vùng Kapit và là một nguồn tiềm năng mang KSTSR P. knowlesi, nhưng các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định liệu rằng chúng bị nhiễm P. knowlesi ? Các dữ liệu cho rằng nhiễm P. knowlesi và những bệnh nhân được phát hiện giống P. malariae dưới kính hiển vi ở vùng Kapit hầu như là người lớn, sự truyền bệnh đang xảy ra là từ khỉ đến người hơn là từ người qua người. Tuy nhiên, dữ liệu dịch tễ học chỉ được báo cáo các trường hợp bệnh có biểu hiện triệu chứng thông qua tiếp cận các bệnh viện.
Nghiên cứu về dịch tễ học phân tử với qui mô lớn, phát hiện những người nhiễm không triệu chứng, sẽ làm rõ hơn về khả năng người trở thành ổ chứa của P. knowlesi vì họ đã từng nghiên cứu nhận ra nơi lưu giữ P. knowlesi trong muỗi tự nhiên và chu kỳ lây truyền P. knowlesi. Người nhiễm tự nhiên với KSTSR khỉ P. knowlesi, liệu rằng loài KSTSR này đã từng chuyển vật chủ với sự lây truyền bệnh giữa người - người hoặc liệu rằng sự lây truyền giữa khỉ qua người cần được thiết lập để có biện pháp phòng ngừa và kiểm soát thích hợp.
Việc phân tích DNA cho P. knowlesi trong số các mẫu máu được phân lập tại vùng này gợi ý rằng phân tích chuỗi gen sẽ có ích để làm rõ về số liệu dịch tễ học và tiến triển lâm sàng bệnh SR do P. knowlesi ở người. Gần đây, We recently described the first focus of human infections with P. knowlesi, a malaria parasite of monkeys, and subsequently reported that these infections can be fatal. Whether mosquito transmission of infection depended on the monkey reservoir or was maintained by the human population was unknown. In the area of highest human infection incidence (within the Kapit Division of Sarawak, Malaysian Borneo), we surveyed 108 wild monkeys and found most were infected with malaria parasites, including P. knowlesi. We observed that the number of P. knowlesi genotypes per infection was much higher in monkeys than humans, some genotypes were shared between the two hosts and no major types were associated exclusively with either host. Evolutionary analyses of sequence data indicate that P. knowlesi existed in monkeys prior to human settlement in Southeast Asia and underwent a recent population expansion. Thus, P. knowlesi is essentially zoonotic; humans being infected with these parasites from the original and reservoir monkey hosts probably since they first entered the forests of Southeast Asia. We consider that the current increase in the human population, coupled with ecological changes due to deforestation, could result in a switch to humans as the preferred host for this pathogenic Plasmodium species.
Kim-Sung Lee và cộng sự (2010) đưa ra kết quả đánh giá nguy cơ có khả năng P. knowlesi nhiễm và gây bệnh lan rộng trên người: tại khu vực Kapit của Malaysian Borneo, nơi mà phần lớn số ca SR ở người do P. knowlesi đã được báo cáo đầu tiên, các nhà khoa học đã xét nghiệm 108 khỉ đuôi dài hoang dại để tìm KSTSR và giải trình tự gen mã hóa protein thoi trùng csp (circumsporozoite protein_csp) và hệ gen ty thể mitochondrial (mt) DNA của các phân lập P. knowlesi lấy từ máu khỉ và máu người. Kết quả đã phát hiện 5 loài Plasmodium (P. knowlesi, P. inui, P. cynomolgi, P. fieldi và P. coatneyi) ở các con khỉ đuôi dài và khỉ đuôi heo, đặc biệt loài P. inui và P. knowlesi lưu hành với tỷ lệ cao.
Nghiên cứu ban đầu của Wharton và Eyles (1961) cho biết trung gian truyền bệnh P. knowlesi từ khỉ cho người là An. hackeri (thuộc nhóm Leucosphyrus), nhưng sau đó người ta khám phá ra An. hackeri không có ái tính với người và chủ yếu truyền bệnh SR cho khỉ (Reid và Weitz, 1961).
Nghiên cứu tiếp theo Wharton và cộng sự (1962) cho thấy An. latens (nhóm Leucosphyrus) chính là vector truyền bệnh chính của KSTSR P. inui cho khỉ và P. knowlesi cho cả khỉ và người. An. latens có tập tính đốt người lúc chạng vạng tối đến gần sáng và đỉnh điểm là nữa đêm. Loài muỗi này hoạt động chủ yếu trong rừng và bìa rừng nhưng có xu hướng vào nơi ở của người sống bìa rừng và trong rừng để tìm mồi đốt máu (I.Vithylingam và cs., 2005).
Riêng hai nghiên cứu vừa mới công bố trên tạp chí Malaria Journal và Emerging Infectious Diseases Journal (2009 và 2011) đã xác nhận sự có mặt P. knowlesi tại Việt Nam, qua đó các tác giả đặt ra vấn đề: Phải chăng An. dirus hay một loài muỗi nào khác thuộc nhóm An. leucosphyrus hiện có ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên có khả năng truyền loài P. knowlesi từ khỉ sang người?
Một số khác biệt về chu kỳ phát triển của Plasmodium knowlesi
Ký sinh trùng Plasmodium knowlesi nhân lên và hoàn thành chu kỳ giai đoạn trong máu trong chu kỳ 24 giờ, dẫn đến sự hình thành một mật độ KSTSR rất cao chỉ trong một thời gian rất ngắn là 24 giờ. Điều này sẽ gợi ý mtoj tiềm năng có thể dẫn đén bệnh diễn tiến nghiêm trọng nếu không được điều trị: merozoite → schizont → trophozoites. Các giai đoạn này có thể phân biệt được với Plasmodium malariae.
Giai đoạn trong muỗi: muỗi ăn phải giao bào trong động vật có vú, các giao bào này có thể là giao bào microgametocytes (sau này thành giao bào đực) hoặc dạngmacrogametocytes (thành giao bào cái). Các giao bào trưởng thành lần lượt thành microgametes và macrogametes, rồi chúng hình thành zygotes bên trong ruột muỗi nhờ vào giai đoạn thụ tinh. Các zygotes trưởng thành thành ookinetes à rồi oocysts. Cuối cùng, các oocysts trưởng thành thành à sporozoites di chuyển đến tuyến nước bọt muỗi.
Giai đoạn trên người: (1) Các giai đoạn ngoại hồng cầu (trong gan): các sporozoites được đưa vào trong người qua muỗi đốt và chúng lưu thông khắp dòng máu và sinh sản vô tính thành merozoites qua thể phân liệt trong tế bào gan. Các thể ngủ trong gan chưa được tìm thấy, có thể tóm tắt: sporozoites → schizonts → merozoites. (2) Giai đoan trong hồng cầu: các merozoites được giải phóng vào trong dòng máu xâm nhập vào các hồng cầu theo chu kỳ vô tính. Một số merozoites trở thành microgametocytes hoặc macrogametocytes nhiễm vào hồng cầu, có thể tóm tắt: merozoite → trophozoite → schizont → merozoites.
Sự khác biệt về mặt lâm sàng giữa Plasmodium malariae và Plasmodium knowlesi
Giai đoạn phát triển sớm của hai loài KSTSR này khá giống nhau khi soi dưới kính hiển vi, mặc dầu sốt do P. malariae là cách 2 ngày và không bao giờ hoặc rất hiếm phát triển với mật độ KSTSR trong máu cao dẫn đến nguy hiểm tính mạng bệnh nhân. Ngược lại, loài P. knowlesi có chu kỳ phát triển gây sốt hàng ngày như P. falciparum và nếu không điều trị, KSTSR có thể phát triển đạt đến mật độ cao, nguy hiểm và tử vong qua khảo sát hồi cứu với kinh nghiệm từ các thầy thuốc Malaysia mới đây trên các bệnh nhân SR P. knowlesitử vong.
Người ta đã xác định về tiến trình bệnh lý thích hợp với SR do P. falciparum. Song trên loài P. knowlesi lại không thấy kết dính hồng cầu trong hệ vi tuần hoàn, nhưng một khi có mật độ KSTSR cao, P. knowlesi sẽ gây tử vong cao ở loài khỉ mắc bệnh, đây là kết quả trong số hầu hết các nghiên cứu trên mô hình động vật. Nguyên nhân gây tử vong ở khỉ mắc bệnh là do mật độ KSTSR trong máu cao và thiếu máu, vàng da và suy thận nhanh chóng -tất cả các triệu chứng đó là những hình thái SR nặng hoặc SRAT do P. falciparum gây ra cho người chúng ta đều biết, mặc dầu hình thái lâm sàng ở khỉ không giống SRAT thể não ở người. Hội chứng bệnh lý lâm sàng thống nhất này đặc hiệu cho SR nặng do P. falciparum. Khỉ mắc bệnh bị rối loạn ý thức mà không hôn mê. Như vậy, dù không có mô hình động vật giải thích thoả mãn về bệnh SR thể não ở người, nhưng nhiễm SR nặng P. knowlesi ở khỉ và ở người có thể có những dấu hiệu tương tự cần lưu ý, dù các thông tin chi tiết về nghiên cứu hồi cứu có hạn chế, nhưng có nhiều đặc điểm nổi bật về 4 ca tử vong do Janet Cox - Singh và cộng sự báo cáo.
Tổng số 4 bệnh nhân chết ở Sarawak với SR do “nhiễm P. malariae”. Vì P. malariae bình thường có mật độ KSTSR thấp và bệnh cảnh lâm sàng không nặng, đặc biệt hình thể trên lam máu giống P. malariae, nhưng do bệnh diễn tiến nặng à gợi ý khả năng là do loài P. knowlesi và xem đây là một nguyên nhân có thể gây bệnh nặng. Các bệnh nhân trong độ tuổi 39 - 69 tuổi và cả 4 đều có hội chứng tiêu hóa và sốt. 2 bệnh nhân không biểu hiện thiếu máu, dù mật độ KSTSR trong máu cao, mặc dầu họ có thể bị mất nước và cô đặc máu (2 bệnh nhân thủng dạ dày do loét); các bệnh nhân đều suy thận và vàng da, đó là những dấu hiệu xảy ra trong SRAT do P. falciparum.
Cả 4 bệnh nhân có số lượng tiểu cầu < 30.000 /μL và 3 bệnh nhân có tăng bạch cầu. Nhiều câu hỏi được đặt ra: SRAT ở người và khỉ Rhesus có tương tự nhau không? Triệu chứng đau bụng có phản ánh hiện tượng thiếu máu nuôi dưỡng ruột? Có mối quan hệ nào giữa sinh khối KSTSR và độ trầm trọng của bệnh? Do đó, các nghiên cứu thêm về SRAT do P. knowlesi ở người để đánh giá toan chuyển hoá, loại trừ nhiễm khuẩn huyết đồng thời và đánh giá sự đáp ứng với điều trị SR sẽ là thông tin cần thiết trong thời gian đến. Nghiên cứu vi tuần hoàn ở khỉ Rhesus được thực hiện trên 60 năm qua cho thấy hiện tượng cô đặc máu trong các mao động mạch và mao tĩnh mạch, như vậy để biết rõ hơn về rối loạn chức năng tuần hoàn.
Janet Cox - Singh đưa ra khuyến cáo quan trọng. Tại châu Á, mật độ KSTSR cao với các triệu chứng xuất hiện trong trường hợp soi kính hiển vi nghi ngờ là P. malariae nên được liên hệ đến chẩn đoán gián biệt với SRAT do P. knowlesi và nên điều trị cẩn thận để tránh tử vong. Qua các thông tin trên, dù loài KSTSR này gây bệnh phù hợp với loài linh trưởng, nhưng họ cũng chỉ ra P. knowlesi là loài KSTSR gây bệnh SR ở người có thể là phù hợp.
Từ đặc điểm lâm sàng nổi bật đến giải phẩu bệnh học
Triệu chứng điển hình bắt đầu sau 11 ngày kể từ khi nhiễm, do đó KSTSR có thể phát hiện được trong máu khoảng từ ngày thứ 10 - 12. KSTSR nhân lên nhanh chóng và mật độ vì thế sẽ đạt rất cao chỉ trong thời gian ngắn, thậm chí có thể gây tử vong ngay. Mặc dù nhiễm P. knowlesi với tỷ lệ tương đối thấp, nhưng nếu một “nguy cơ” chẩn đoán đoán nhầm với một loài khác, nhất làP. malariae. Tuy nhiên, nếu nghi ngờ thì cần chẩn đoán phân biệt P. knowlesi với P. malariae.
Các triệu chứng SR do P. knowlesi ở người không khác gì các loài khác. Trong một điều tra Singh và cộng sự (2004) cho thấy các triệu chứng biểu hiện trên 94 bệnh nhân nhiễm duy nhất loài P. knowlesi tại Malaysia. Các triệu chứng bao gồm sốt, rét run và rùng mình (100%), nhức đầu (32%), ho (18%), nôn mửa 16%, buồn nôn (6%), đại tiện phân lỏng (4%). Chu kỳ vô tính của KSTSR ở người và các vật chủ tự nhiên (khỉ) khoảng 24 giờ. Do đó, bệnh có thể liên quan và gọi là sốt hàng ngày. Ngoài ra, SR do P. knowlesi có thể hiện diện nếu đồng thời tăng CRP và giảm tiểu cầu. Loại KSTSR này không có tái phát do không tìm thấy thể ngủ trong gan. Trong khi nhiễm loại KSTSR này thường xem là không nghiêm trọng, nhưng có biến chứng đe dọa (suy hô hấp, rối loạn chức năng gan), thậm chí tử vong (tỷ lệ tử vong một loạt ca khoảng 2%).
Đã có một số ca tử vong với các triệu chứng giống với SRAT do P. falciparum, mặc dù hầu hết ca bệnh có thể điều trị khỏi bằng chloroquine và primaquine, song các bệnh nhân P. knowlesi đều có số lượng tiểu cầu thấp hơn so với các trường hợp nhiễm KSTSR khác và một số tác giả đề nghị có thể sử dụng chỉ số tiểu cầu thấp làm yếu tố bổ sung chẩn đoán bệnh SR do P. knowlesi.
Một ca bệnh đã được mổ tử thi mô tả SR do P. knowlesi cho thấy gan, lách lớn. Tổ chức não và nội tâm mạc có nhiều xuất huyết dạng chấm. Phổi có hình ảnh điển hình của hội chứng suy hô hấp cấp, phẩu tích còn cho thấy có sự ẩn cư các hồng cầu nhiễm trong lòng vi huyết quản não, tiểu não, tim, thận mà không có bằng chứng phản ứng viêm mạn tính trước đó trong não hoặc bất kỳ cơ quan nào. Lách và gan chứa nhiều hạt sắc tố pigment, đại thực bào, hồng cầu bị ký sinh. Thận có bằng chứng hoại tử ống thận cấp. Các tế bào nội mô trong nhu mô tim bị phù nề. Cắt các mảnh nhu mô não không thấy hiện tượng kết dính ICAM-1 (intracellular adhesion molecule-1). Toàn bộ hình ảnh giải phẩu tử thi rất giống với các trường hợp tử vong do P.falciparum. Có những điểm rất khác biệt quan trọng như vắng mặt hôn mê mặc dù có dấu xuất huyết dạng chấm và KSTSRẩn cư trong nhu mô và vi huyết quản não.
Đặc điểm hình thái P. knowlesi so với P. malariae qua xét nghiệm chuẩn vàng Giemsa
Năm 1999, Singh B và cộng sự nghiên cứu các trường hợp sốt rét ở khu vực Kapit thuộc đảo Borneo, Malaysia qua phát hiện KSTSR bằng chuẩn vàng giêm sa cho thấy đó là P. malariae, dohình thái không điển hình nên họ đã dùng kỹ thuật Nested PCR để xác định P. malariae DNA nhưng không phù hợp với kết quả, họ đã tiếp tục nghiên cứu để xem rằng các trường hợp nhiễm này có phải do một biến thể của P. malariaehay do một loài Plasmodium mới xuất hiện. Để khẳng định điều đó, từ tháng 3.2000 đến 11.2002 nhóm nghiên cứu đã lấy 208 mẫu máu bệnh nhân mắc SR ở khu vực Kapit để xét nghiệm so sánh song song bằng soi kính hiển vi và Nested PCR, qua phương pháp Nested PCR họ đã phát hiện 120/208 (58%) là do P. knowlesi mà không phải do P. malariae.
Các nhà nghiên cứu đã quan sát từ giai đoạn hồng cầu nhiễm KSTSR qua nhuộm Giemsa của máu các bệnh nhân nhiễm đơn thuần P. knowlesixác định bằng phương pháp nested PCR. Các thể tư dưỡng non xuất hiện các thể nhẫn và không thể hoặc rất khó phân biệt với thể tư dưỡng non của P. falciparum. Có khi xuất hiện nhiều hơn 1 thể nhẫn trong mỗi hồng cầu và hoặc có thể nhìn thấy các hematin đứng đôi. Thể tư dưỡng trưởng thành có mặt ít hơn 1/3 số hồng cầu bị nhiễm và bào tương đậm đặc, không biến hình, dễ nghĩ đến P. malariae. Trong một số trường hợp, có thể tìm thấy thể tư dưỡng già dạng “dãi băng” điển hình như với P. malariae. Các thể phân liệt tạo cụm trung tâm từ 8-18 tiểu thể hoa cúc và các thể phân liệt không chiếm hết toàn bộ hồng cầu. Các thể tư dưỡng và thể phân liệt được nhuộm sắc tố đậm đặc với sắc tố sốt rét nâu, đậm hoặc màu đen. Thể giao bào tương tự như giao bào P. malariae và có hình tròn, chúng chiếm hầu hết thể tích hồng cầu và có sắc tố sốt rét phân tán rải rác. Các hồng cầu nhiễm thể tư dưỡng già và thể phân liệt thường được nhìn thấy trong lam máu giọt đặc, chúng không trương phình và không thấy bất cứ chấm đậm và sáng nào; các đặc điểm trên tuy riêng biệt nhưng đôi khi tương tự điển hình đối với các hồng cầu nhiễm P.malariae.
 |
| Hình 1. Phân biệt về mặt hình thái học giữa ký sinh trùng P. malariae với P. knowlesi |
Về mặt chẩn đoán sinh học phân tử, vì một số nhược điểm của hình thái học “na ná” khi chỉ thông qua khâu xác định bằng chuẩn vàng giêm sa có khi phân vân giữa P. knowlesi với P. falciparum và P. malariae. Đặc biệt sự xuất hiện P. knowlesi tương tự P. malariae không thể chẩn đoán loại trừ một cách thỏa đáng, nên việc áp dụng các kỹ thuật sinh học phân tử như là kỹ thuật đối chiếu tương đối chuẩn. PCR và các kỹ thuật phân tích phân tử đều đáng tin cậy để chẩn đoán P. knowlesi. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho biết có thể có hiện tượng lại chéo (cross-hybridization) giữa loài P. knowlesi và P. vivax, do đó cần cân nhắc khi đưa ra kết quả, nhất là tại các vùng sốt rét lưu hành có tỷ lệ P. vivax tương đối cao.
Phát hiện và chẩn đoán loài ký sinh trùng sốt rét Plasmodium knowlesi
Chẩn đoán Plasmodium knowlesi dựa trên hình thái học
Hình thể P.knowlesi trên tiêu bản khi soi dưới kính hiển vi tương tự như P.malariae. Đây là một trong những yếu tố gây nhầm lẫn P.knowlesi và P.malariae khi chẩn đoán bằng phương pháp nhuộm Giêmsa truyền thống.
Theo tiến sĩ Janet thuộc Đại học Sarawar, Malaysia từ năm 2001 đến năm 2006, trong tổng số 960 lam máu của các bệnh nhân SR nhập viện thì có đến 228/266 lam được chẩn đoán nhầm là P.malariae được xác định là P. knowlesi bằng DNA sau đó.
 |
Hình thể P. knowlesi trên lam giọt mỏng (hình trái) và giọt dày (hình phải) |
2. Chẩn đoán Plasmodium knowlesi bằng kỹ thuật sinh học phân tử
Các kỹ thuật PCR hoặc nested PCR và một số kỹ thuật miễn dịch phân tử khác đang được ứng dụng tại các la bô hiện đại để chẩn đoán và nghiên cứu về các loài KSTSR P. knowlesi. Các kỹ thuật này vừa giúp chẩn đoán xác định loài, vừa giúp nghiên cứu sâu về dịch tễ học phân tử, vừa làm sáng tỏ các khía cạnh khác cho loài KSTSR mới này ở người. Các phương pháp phân tử hiện đang sẵn có tại một số la bô lâm sàng và thử nghiệm “real-time” nhanh (chẳng hạn QT-NASBA dựa trên phản ứng PCR) đang triển khai, hy vọng có thể triển khai tại các vùng lưu hành bệnh. Vì mật độ KSTSR không phải lúc nào cũng tương quan với diễn tiến của bệnh, đặc biệt khi KSTSR dính vào thành mạch máu. Do đó, các công cụ chẩn đoán nhạy hơn là cần thiết để vận dụng để phát hiện KSTSR mật độ thấp tốt khi tiến hành tại thực địa.
Phác đồ điều trị sốt rét do Plasmodium knowlesi ở người
Điều trị chủ yếu đối với P. knowlesi là chloroquin (CQ), sau đó cho primaquin (PMQ) theo liệu trình chuẩn đã dùng cho đa số trường hợp cho thấy có đáp ứng tốt. Vì loài P. knowlesi chỉ cần 24 giờ là hoàn tất chu kỳ, nên nó sẽ nhân lên và đạt đến mật độ rất cao trong một thời gian ngắn, điều đó có thể dẫn đến tử vong. Vì lý do này, bệnh nhân cần được chẩn đoán sớm và điều trị khẩn cấp. Với P. knowlesi, chúng đáp ứng và dung nạp tốt với các thuốc CQ và PMQ.
Nói tóm lại, hiện có nhiều báo cáo được đăng tải trong nước và quốc tế về sự có mặt của loài KSTSR P. knowlesi tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên, Việt Nam. P. knowlesi hiện được xem là loài KSTSR thứ năm gây bệnh cho người, ngoài P. falciparum, P. vivax, P. malariae và P. ovale. Riêng P. knowlesi ký sinh ở khỉ đuôi dài và khỉ đuôi heo (Macaca fascicularis và Macaca menestrina), chúng sống ở khu vực rừng rậm Đông Nam Á và ở khỉ Presbytis melalophos sống tại quần đảo Sumatra, Indonesia. Loài P. knowlesi có chu kỳ phát triển trong hồng cầu 24 giờ, với cấu trúc gen rất gần với P. vivax và nhiều đặc điểm hình thể giống P. malariae. Có thể gây SRAT và tử vong cho bệnh nhân nếu không thận trọng và điều trị sớm. Do vậy, việc tiếp tục mở rộng nghiên cứu đánh giá là cần thiết.
Một số nét đặc trưng của tiến hóa liên quan đến cội nguồn Plasmodium spp
Các vi sinh vật thuộc giống Plasmodium được xác định và phân biệt với các Apicomplexa khác và các sinh vật khác đôi khi nhầm lẫn với KSTSR (Peréz-Tris và cs., 2005), vì KSTSR thực hiện một chu kỳ phát triển gọi là “merogony” (gồm nhiều giai đoạn phân chia nhân theo sau sự phân cắt bào tương sinh ra các tế bào con gọi là merozoites) bên trong hồng cầu và sinh ra các thành phần hạt sắc tố (hemozoin pigment) và các tinh thể là sản phẩm của sự tiêu hóa Hb. Các thành viên khác thuộc bộ Haemosporida biến đổi khác nhau trong việc phối hợp các đặc tính này. HọHaemoproteidae sinh ra các hạt sắc tố (pigment), nhưng sự phát triển đoạn trứng (merogony) xảy ra trong các mô hơn là trong hồng cầu. Các họ Garniidae và Leucocytozoidae không sinh ra các hạt pigment ở bất kỳ giai đoạn nào, nhưng trường hợp khác có thể thấy phát triển giai đoạn trứng ở các hồng cầu hay tế bào máu.
Tất cả ký sinh trùng sốt rét có một giai đoạn hữu tính xảy ra trong côn trùng ăn máu (blood-feeding insect), là các vật chủ chính đối với các vi sinh vật này (có thể gọi là “vector” về mặt dịch tễ học). Về kinh điển, các loài Plasmodium được mô tả dựa trên đặc điểm hình thái học và đặc điểm trắc lượng hình thái (morphological and morphometric characteristics), đầu tiên giai đoạn trong máu của chu kỳ sinh học.các đặc tính khác sử dụng trước đây để phân loại mức độ độc lực và thời gian chu kỳ hồng cầu (24, 48, 72 giờ).
Đặc điểm về hình thái học thường tỏ ra không đủ để chứng minh và phân biệt các loài và cho thấy trái ngược với các dữ liệu về trình tự phân tử. Các nhà khoa học bắt đầu sử dụng các công cụ và phương pháp tiến bộ để phân loại KSTSR và xây dựng phả hệ di truyền theo một mối quan hệ phả hệ di truyền trong tiến hóa loài.
Vật chủ và phân bố địa lý một số ký sinh trùng sốt rét đã được nghiên cứu trên thế giới
Loài ký sinh trùng | Vật chủ | Phân bố địa lý |
Plasmodium reichenowi | Tinh tinh | Châu Phi |
Plasmodium falciparum | Con người | Châu Phi, châu Á, Nam và Trung Mỹ |
Plasmodium fieldi | Khỉ đuôi ngắn, giống macaca | Đông Nam Á |
Plasmodium simiovale | Khỉ đuôi ngắn, giống macaca | Đông Nam Á |
Plasmodium hylobati | Khỉ đuôi ngắn, giống macaca | Đông Nam Á |
Plasmodium inui | Khỉ đuôi ngắn, giống macaca | Đông Nam Á |
Plasmodium knowlesi | Khỉ đuôi ngắn, giống macaca | Đông Nam Á |
Plasmodium coatneyi | Khỉ đuôi ngắn, giống macaca | Đông Nam Á |
Plasmodium simium | Khỉ / Nhện | Đông Nam Á |
Plasmodium vivax | Con người | Châu Phi, Á, Nam và Trung Mỹ |
Plasmodium cynomolgi | Khỉ đuôi ngắn, giống macaca | Đông Nam Á |
Plasmodium gonderi | Madrill | Châu Phi |
Plasmodium malariae | Con người | Châu Phi, Á, Nam và Trung Mỹ |
Plasmodium brasilianum | Nhện/Khỉ rú/ /Khỉ đêm | Nam Mỹ |
Plasmodium ovale | Con người | Châu Phi |
Hepatocystis sp. | Dơi/ khỉ | Châu Phi, châu Á |
Plasmodium atheruri | Gặm nhấm | Châu Phi |
Plasmodium vinkei | Gặm nhấm | Châu Phi |
Plasmodium chabaudi | Gặm nhấm | Châu Phi |
Plasmodium berghei | Gặm nhấm | Châu Phi |
Plasmodium yoelii | Gặm nhấm | Châu Phi |
Plasmodium mexicanum | Thằn lằn | Bắc Mỹ |
Plasmodium chiricahuae | Thằn lằn | Bắc Mỹ |
Plasmodium elongatum | Chim | Toàn cầu |
Plasmodium gallinaceum | Chim | Đông Nam Á |
Plasmodium relictum | Chim | Toàn cầu |
Plasmodium floridense | Thằn lằn | Vùng Carribbe / Trung Mỹ |
Plasmodium azurophilum | Thằn lằn | Vùng Carribbe / Trung Mỹ |
Plasmodium faichildi | Thằn lằn | Trung Mỹ |
Plasmodium agamae | Thằn lằn | Châu Phi |
Plasmodium gigantum | Thằn lằn | Châu Phi |
Plasmodium mackerassae | Thằn lằn | Úc |
Mối quan hệ trong hệ thống phát sinh loài hay nghiên cứu cây phả hệ
Lĩnh vực nghiên cứu về phả hệ di truyền của Plasmodium dương như là một khía cạnh rất được các nhà khoa học quan tâm trong thập niên qua và tiếp tục có nhiều loài hơn nữa được bổ sung vào cây phả hệ và các giả thuyết cũcũng là vấn đề cần làm rõ trong tương lai đến. Nghiên cứu về phả hệ di truyền cấp độ phân tử của KSTSR bắt đầu vào năm 1991 (Waters và cs., 1991) và hiện nay vẫn đang tiếp tục phát triển. Các kết luận chưa thấu đáo của các nghiên cứu trước đây đã giải thích và làm rõ bởi các nghiên cứu sau này, một mặt vì các hạn chế trước đây trong nghiên cứu là khó khăn trong lựa chọn sự xếp nhóm hay phân loại đầy đủ cũng như lựa chọn gen để phân tích. Việc lựa chọn cả phân loại các vi sinh vật quan tâm (ingroup taxa) và vi sinh vật chưa quan tâm (outgroup taxa) để phân tích phả hệ di truyền có thể có ảnh hưởng có ý nghĩa quan trọng cho các giả thuyết về tiến hóa sinh vật.
Các phân tích phả hệ di truyền cũ thường chứa một số lượng nhỏ các loài trong phân loại cùng nhóm (ingroup), từ 6-12 phân loại có liên quan rất mật thiết nhưng cũng có một số lại khác nhau, chưa thống nhất. Sự phân loại khác nhau như thế chưa rõ ràng dẫn đến khác biệt lớn cũng như đa dạng về giống, phân tích nhiều loài có quan hệ rất xa như “outgroup”, có thể dẫn đến một số kết quả không xác thực và kết luận mâu thuẫn với những gì đã ghi nhận trong y văn thời điểm đó.
Ngoài vấn đề phân loại mẫu, nhiều năm qua nghiên cứu phân loại học về sốt rét (malaria systematics) cũng là một quan tâm lớn bởi các vấn đề vốn có di truyền trong các locus chọn để phân tích. Các small subunit (SSU) rRNA và các protein kết cụm (circumsporozoite protein_CSP) như dữ liệu đáng tin cậy của phả hệ di truyền Plasmodium (Waters và cs., 1991; Waters và cs.,1993; Escalate và Ayala., 1994; Escalante và cs., 1995; McCutchan và cs., 1996; Qari và cs., 1996; Escalante và cs., 1996; Escalante và cs.,1997). Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây chỉ ra không có locuss nào trong số này phù hợp cho vấn đề nghiên cứu tiến hóa củacác loài Plasmodium. SSU rRNA và protein kết cụmnhư là locus chuẩn sử dụng trong hệ thống phân loại mức phân tử cấp độ cao, nhưng sau đó tìm thấy các loài Plasmodium sở hữu các gen riêng biệt của rRNA, mỗi trình diện mỗi điểm khác trong chu kỳ và có thông tin trao đổi di truyền theo các cách khác nhau (Corredor và Enea., 1993). Một số phả hệ di truyền cũ bao gồm một tập hợp paralogs (các gen bản sao) và orthologs (các đồng đẳng thích hợp) và chỉ có orthologs là cây gen đáng tin cậy. Mặc dù các đoạn mồi đặc hiệu cho từng giai đoạn đời sống đã được phát triển cho SSU rRNA loci trong Plasmodium, như sự chuyển dạng gen trong số các paralogs chưa đồng nhất không thể loại trừ, các locus này nên dử dụng thật cẩn thận. Ngoài ra, ngay cả với các phả hệ di truyền gần đây (Leclerc và cs., 2004) sử dụng các trình tự gen cho thấy kết quả không thể giải thích một cách thuyết phục với những ổ gen khác trong bộ gen.
Tương tư như vậy, locus CSP, thường được dùng cho nghiên cứu tiến hóa, có thể khó giải quyết như là mã di truyền đối với protein bề mặt và chịu áp lực lựa chọn mạnh từ hệ thống miễn dịch của các động vật có xương sống. Nhu cầu lựa chọn dưới áp lực, các thay đổi không trung hòatrong gen có thể hoặc là không rõ ràng trong tín hiệu phả hệ di truyền hoặc là dẫn đến kết luận đưa ra các hàm ý không đúng về phả hệ di truyền (Hughes và Hughes., 1995). CSP là một locus ưu thế để nghiên cứu như một số lượng lớn về dữ liệu di truyền sẵn có được quan tâm trong lĩnh vực khoa học sốt rét và có thể xem đây là một nền tảng đặc biệt để chế ra vaccine trong tương lai. Các phương pháp cải tiến cho giải trình tự gen cho phép các loci tiến triển tốt hơn trong quá trình nghiên cứu tiến hóa và CSP giờ đây sử dụng một cách hệ thống.
Vào lúc này, một locus mới được phát triển cho một nghiên cứu phân tử, như là các gen ty thể đối với cytochrome b (Escalante và cộng sự., 1998; Perkins và Schall., 2002) và gen cho enzyme adenylosuccinate (Kedseierki và cộng sự., 2002). Một lời cảnh báo rằng mitochondrial cytochrome b là đích của một số thuốc sốt rét và sự đột biến trong gen được biết có liên quan đến kháng (Vaidya và cs., 1993). Các nghiên cứu này các các nghiên cứu trước đây phù hợp cho các gen đã chọn với hy vọng nghiên cứu phả hệ cho loài Plasmodium dựa trên dữ liệu nhiều locus. Tuy nhiên, nên chú ý rằng cơ hội để xác định các locus liên quan trong loài Plasmodium là đầy hứa hẹn nhờ vào khả năng áp lựa chọn lựa chưa nhận ra từ hệ miễn dịch của vật chủ hoặc (trong trường hợp ký sinh trùng ở người) thuốc, do đó biện pháp hỗ trợ đang được quan tâm.
Một giả định thuộc về trực giác rằng các nghiên cứu về mặt phân tử là một thử thách sớm thật lý tưởng và có liên quan mật thiết với các ký sinh trùng sốt rét ở người. Giờ đây, các công trình nghiên cứu mới đây chỉ ra, mặc dù các loài ký sinh trùng trên loài linh trưởng (ngoại trừ P. falciparum và P. reichenowi) tạo nhóm với nhau, thì các ký sinh tùng sốt rét này với vật chủ người là không liên quan trong nhóm này.
Các mối liên hệ tương đối xa trong số các tác nhân sinh bệnh ở người chỉ ra rằng sốt rét hầu như có liên quan rất xa xưa với các loài linh trưởng (Escalante và cs., 1998; Perkins và Schall, 2002; Leclerc và cs., 2004, Cornejo và Escalante., 2006). Một trong những vấn đề hấp dẫn nhất trong quá trình tiến hóa sốt rét là nguồn gốc bí mật của P. falciparum, một số vấn đề khác đã nghĩ và tổng kết lại trong thời gian 15 năm qua. Các cuốn sách giáo khoa cũ và thậm chí các cuốn sách gần đây đề cập đến P. falciparum như là loài đang tăng truyền bệnh theo chiểu ngang từ chim và đó là sự chuyển dịch vật chủ mà trong đó loài có độc lực P. falciparum thường thấy (White và cs., 2003). Song, các nghiên cứu mới đây hơn bác bỏ lập luận của giả thuyết này, vì P. falciparum rơi vào nhóm động vật có một tổ tiên chung của các ký sinh trùng của động vật có vú, khác và nằm ngoài nhóm đang tác động lên chim và thằn lằn. Mặt khác, các loài cũng nằm bên ngoài của bệnh sốt rét ở loài gặm nhấm và linh trưởng. Đúng hơn là P. falciparum là một nhánh rẽ trong nguồn gốc tổ tiên bao gồm chỉ chính nó và các loài chị em với nó, ký sinh trùng trên loài tinh tinh P. reichenowi.
Giả thuyết nguồn gốc từ chim (avian-origin) xuất phát từ một số nghiên cứu sớm về phả hệ phân tử (molecular phylogenies) cho biết vấn đề do quá trình phân loại học và chọn lọc gen chưa đày đủ (Waters và cs., 1991; Waters và cs., 1993; Escalante và cs., 1995; Escalante và cs., 1996; Escalante và cs., 1997). Lần đầu tiên năm 1996 (Qari và cs., 1996) và tiếp đó làm lại năm 2002 (Perkins và Schall, 2002), bằng chứng mới bác bỏ giả thuyết ngồn gốc từ chim. Perkins và Schall (2002) ấn bản một cây phả hệ tương đối mạnh mẽ và chính xác dựa trên Cytochrome b với một kích cỡ mẫu lớn của ký sinh trùng sốt rét trên động vật có xương sống và một nằm ngoài nhóm của họ chị em. Cây phả hệ Cytochrome b này thay thế P. falciparum trong một đơn vị huyết thống đơn tố của các ký sinh trùng của động vật có vú.
Ngoài ra, đứng về góc độ của ngành nghiên cứu phát sinh chủng loài / hoặc phả hệ di truyền thì phân tích này bao một một thử nghiệm rõ ràng của giả thuyết bắt nguồn từ chim sử dụng thử nghiệm Shimodaira-Hasegawa, một phương pháp dựa trên cây phả hệ tính toán khả năng thay đổi trong phả hệ di truyền này.
Vào lúc này, bằng chứng (Qari và cs., 1996; Escalate và Ayala., 1997; Perkins và Schall., 2002; Leclerc và cs., 2004; Martinsen và cs., 2008) chỉ ra rằng chỉ những loài có quan hệ gần với P. falciparum là P. reichenowi và sự khác biệt của hai loài cách 5 và 8 triệu năm dựa trên thời kỳ hóa thạch của tinh tinh và người (Escalante và Ayala., 1994; Escalante và cs., 1995). Phân tích phả di truyền trong tương lai bao gồm các ký sinh trùng nhiễm vào các con dơi (một số giống KSTSR đã được mô tả là có vật chủ duy nhất) và các động vật có guốc (ungulates) có thể sẽ giúp xác định các mối quan hệ gần của P. falciparum và hiểu biết hơn về lịch sử tiến hóa của các ký sinh trùng này.
Ổ chứa cho loài Plasmodium knowlesi chính là người và khỉ Macaques: Nghiên cứu thêm?
Nhóm tác giả hồm những nhà khoa học Kim-Sung Lee1, Paul C. S. Divis1, Siti Khatijah Zakaria1, Asmad Matusop2, Roynston A. Julin1, David J. Conway3, Janet Cox-Singh1,4, Balbir Singh1 đang công tác tại các đơn vị dưới đây (theo số ghi chú) 1 Malaria Research Centre, Faculty of Medicine and Health Sciences, University Malaysia Sarawak, Kuching, Sarawak, Malaysia, 2 Sarawak State Health Department, Kuching, Sarawak, Malaysia, 3. Department of Pathogen Molecular Biology, London School of Hygiene and Tropical Medicine, London, United Kingdom, 4 Centre for Infection, St. George's University of London, London, United Kingdom cùng đưa ra kết quả khảo sát và đánh giá nguy cơ có khả năng ký sinh trùng sốt rét ở khỉ loài Plasmodium knowlesi lan rộng trên người.
Plasmodium knowlesi, một loại ký sinh trùngsốt rét vốn dĩ từ lâu được xem là chỉ khu trú trên khỉ macaques tại Đông Nam Á, song gần đây đã được công nhận nó đóng vai trò và là nguyên nhân gây ra sốt rét ở người quan trọng. Không giống như lành tính và hình thái học của ký sinh trùng tương tự như P. malariae, các ký sinh trùng này có thể dẫn đến tử vong. Ký sinh trùng sốt rétnói chung, kể cả P. knowlesi, từ lâu chưa được phát hiện trên khỉ macaques của Đơn vị Kapit của Malaysian Borneo, nơi mà phần lớn số ca sốt rét ở người do P. knowlesi đã được báo cáo. Nhằm mở rộng hiểu biết về đặc điểm dịch tễ học và lịch sử tiến hóa của loài P. knowlesi, các nàh khoa học đã xét nghiệm tổng cộng 108 con khỉ macaques hoang dại để tìm ký sinh trùng sốt rét và giải trình tự (sequence) loại gen mã hóa protein thoi trùng (circumsporozoite protein_csp) và hệ gen ty thể mitochondrial (mt) DNA của các phân lập (isolate) của P. knowlesi lấy từ máu khỉ macaques và người. Các nàh khoa học đã phát hiện 5 loài Plasmodium (P. knowlesi, P. inui, P. cynomolgi, P. fieldi và P. coatneyi) các con khỉ macaques đuôi dài và đuôi heo (long-tailed và pig-tailed macaques), và kết quả cho thấy loài P. inui và P. knowlesi lưu hành với tỷ lệ khá cao. Khỉ macaques có số kiểu gen P. knowlesi cao hơn mỗi đợt nhiễm hơn là trên người và một số allele đa dạng khác nhau của gene P. knowlesi csp và một số mtDNA haplotypes được chia sẻ trên cả hai loại vật chủ khỉ và người.
Phân tích dữ liệu về trình tự DNA chỉ ra không có một nòi giống nào liên quan mtDNA có liên đới đến một trong hai vật chủ. Ngoài ra, phân tích về dữ liệu mtDNA còn cho thấy P. knowlesi xuất phát từ một quần thể ký sinh trùng tổ tiên truyền lại mà nó tòn tại trước khi có loài người tại Đông Nam Á, và có thể quần thể quan trọng này đã mở rộng cách nay 30.000–40.000 năm. Kết quả nghiên cứu chỉ ra nhiễm trùng ở người của loài P. knowlesi không phải là mới xuất hiện gần đây tại khu vực Đông Nam Á và sốt rét P. knowlesi tiên khởi là một bệnh động vật truyền sang người với loài khỉ macaques hoang dại đóng vai trò như ổ chứa. Tuy nhiên, các thay đổi về sinh thái đang diễn ra từ nạn phá rừng, làm gia tăng vấn đề quần thể dân cư và điều này có thể gây nên sinh bệnh của các loài Plasmodium chuyển dịch sang người như là một vật chủ ưa thích ưu tiên (preferred host).
Gần đây, cũng các nhà khoa học này đã mô tả tâm điểm đầu tiên về các ca bệnh ở người nhiễm P. knowlesi, một loại ký sinh trùng sốt rét của khỉ và tiếp sau đó đã có báo cáo tử vong do loài ký sinh trùng này. Có hay không sư lan truyền muỗi gây nhiễm lệ thuộc vào ổ chứa của khỉ hoặc duy trì trong quần thể người vẫn còn chưa biết. Tại các vùng có tỷ lệ người nhiễm cao nhất (trong Kapit Division of Sarawak, Malaysian Borneo), họ đã điều tra 108 con khỉ hoang dại và tìmthấy hầu hết chúng nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở người, gồm cả P. knowlesi. Họ đã quan sát cho thấy số lượng kiểu gen P. knowlesi / nhiễm là cao hơn nhiều ở khỉ so với ở người, một số kiểu gen chia sẻ giữa hai loại vật chủ và không có loại chính nào có liên quan cho riêng một vật chủ nào cả. Phân tích sự tiến hóa của dữ liệu trình tự cho thấy P. knowlesi tồn tại trên khỉ trước khi loài người đặt chân đến tại khu vực Đông Nam Á và mở rộng sang các quần thể gần đây. Do vậy, loài P. knowlesi là một tác nhân gây bệnh động vật truyền sang người quan trọng; loài người nhiễm các ký sinh trùng từ góc và ổ chứa của vật chủ khỉ và từ đó chúng tiến sâu vào trong rừng của Đông Nam Á. Với sự gia tăng quần thể dân như hiện nay kèm theo sự thay đổi nhanh chóng sinh thái do nạn phá rừng, có thể dẫn đến dịch chuyển bệnh ký sinh trùng sang người như là một vật chủ ưu thế đối với một số loài ký sinh trùng sốt rét của Plasmodium.
Dựa trên những nghiên cứu về dịch tễ của P. knowlesi và sự phân bố nhóm vector Anopheles Leucosphyrus, cho đến nay P. knowlesi được xem là loài KSTSR thứ 5 truyền bệnh ở người, mới chỉ lan turyền tại khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, do tình hình và trào lưu du lịch sinh thái đến các quvùng Đông Nam Á có lưu hành SR thì cũng có thể mang mầm bệnh về các quốc gia thuộc các châu lục khác là điều có thể.
Sự truyền bệnh SR từ loài khỉ đến người và người đến người qua trung gian muỗi có thể xảy ra trong điều kiện thực nghiệm. Liệu rằng có một ổ nhiễm về P. knowlesi ở vùng Kapit, đảo Borneo, Malaysia có thể góp phần quan trọng trong lây truyền từ người đến người hoặc từ khỉ đến người qua muỗi trung gian truyền bệnh thì chưa thấu đáo. Nhóm muỗi An.leucosphyrus có khả năng lây truyền P. knowlesi và có mặt ở vùng Kapit, vì là vật chủ tự nhiên của P. knowlesi - các loài khỉ đuôi dài (Macaca fascicularis) và khỉ đuôi lợn (Macaca nemestrina). Mặc dầu, hai loài khỉ này sống rất gần với con người ở vùng Kapit và là một nguồn tiềm năng mang KSTSR P. knowlesi, nhưng các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định liệu rằng chúng bị nhiễm P. knowlesi ? Các dữ liệu cho rằng nhiễm P. knowlesi và những bệnh nhân được phát hiện giống P. malariae dưới kính hiển vi ở vùng Kapit hầu như là người lớn và không có trường hợp mắc bệnh tập trung trong cùng cộng đồng ở chung những căn nhà dài, gợi ý rằng sự truyền bệnh xảy ra xa vùng lân cận của những căn nhà dài chung và sự truyền bệnh đang xảy ra là từ khỉ đến người hơn là từ người qua người. Tuy nhiên, dữ liệu dịch tễ học chỉ được báo cáo các trường hợp bệnh có biểu hiện triệu chứng ở những người tiếp cận các dịch vụ y tế tại các bệnh viện.
Nghiên cứu về dịch tễ học phân tử với qui mô lớn, phát hiện những người nhiễm không triệu chứng, sẽ làm rõ hơn về khả năng người trở thành ổ chứa của P. knowlesi vì họ đã từng nghiên cứu nhận ra nơi lưu giữ P. knowlesi trong muỗi tự nhiên và chu kỳ lây truyền của P. knowlesi. Người nhiễm tự nhiên với KSTSR khỉ P. knowlesi, liệu rằng loài KSTSR này đã từng chuyển vật chủ với sự lây truyền bệnh giữa người - người hoặc liệu rằng sự lây truyền giữa khỉ qua người cần được thiết lập để có biện pháp phòng ngừa và kiểm soát thích hợp. Việc phân tích DNA cho P. knowlesi trong số các mẫu máu được phân lập tại vùng này gợi ý rằng phân tích chuỗi gen sẽ có ích để làm rõ về số liệu dịch tễ học và tiến triển lâm sàng bệnh SR do P. knowlesi ở người. Gần đây, Kim-Sung Lee và cộng sự (2010) đưa ra kết quả đánh giá nguy cơ có khả năng P. knowlesi nhiễm và gây bệnh lan rộng trên người: tại khu vực Kapit của Malaysian Borneo, nơi mà phần lớn số ca SR ở người do P. knowlesi đã được báo cáo đầu tiên, các nhà khoa học đã xét nghiệm 108 khỉ macaques hoang dại để tìm KSTSR và giải trình tự gen mã hóa protein thoi trùng csp (circumsporozoite protein_csp) và hệ gen ty thể mitochondrial (mt) DNA của các phân lập P. knowlesi lấy từ máu khỉ macaques và máu người. Kết quả đã phát hiện 5 loài Plasmodium (P. knowlesi, P. inui, P. cynomolgi, P. fieldi và P. coatneyi) ở các con khỉ macaques đuôi dài và đuôi heo (long-tailed và pig-tailed macaques), đặc biệt loài P. inui và P. knowlesi lưu hành với tỷ lệ cao.
Trung gian truyền bệnh loài ký sinh trùng Plasmodium knowlesi
Nghiên cứu ban đầu của Wharton và Eyles (1961) cho biết trung gian truyền bệnh P. knowlesi từ khỉ cho người là An. hackeri (thuộc nhóm Leucosphyrus), nhưng sau đó người ta khám phá ra An. hackeri không có ái tính với người và chủ yếu truyền bệnh SR cho khỉ (Reid và Weitz, 1961). Nghiên cứu tiếp theo Wharton và cộng sự (1962) cho thấy An. latens (nhóm Leucosphyrus) chính là vector truyền bệnh chính của KSTSR P. inui cho khỉ và P. knowlesi cho cả khỉ và người. An. latens có tập tính đốt người lúc chạng vạng tối đến gần sáng và đỉnh điểm là nữa đêm. Loài muỗi này hoạt động chủ yếu trong rừng và bìa rừng nhưng có xu hướng vào nơi ở của người sống bìa rừng và trong rừng để tìm mồi đốt máu (I.Vithylingam, 2005).
Riêng nghiên cứu vừa mới công bố trên tạp chí Malaria Journal (2009) đã xác nhận sự có mặt P. knowlesi tại Việt Nam, theo đó các tác giả cũng đã đặt ra vấn đề: phải chăng An. dirus hay một loài muỗi nào khác thuộc nhóm An. leucosphyrus hiện có ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên có khả năng truyền loài P. knowlesi từ khỉ sang người ở Việt Nam?
Plasmodium knowlesi được phát hiện lần đầu và nguy cơ lan rộng trong khu vực?
Cox - Sigh và cộng sự đã phát hiện ca sốt rét nhiễm P.knowlesi đầu tiên ở khỉ Macaque đuôi dài (Macaca fascicularis) khi nhập khẩu từ Singapore đến Ấn Độ vào năm 1931. Một năm sau, Knowles và Das Gupta đã thành công trong việc gây nhiễm thực nghiệm truyền P. knowlesi từ khỉ sang người. Năm 1960, Eyles đã thành công trong việc truyền tác nhân gây bệnh SR ở khỉ là P.cynomolgi cho người trên thực nghiệm. Năm 1966 bằng cách cho muỗi đốt máu có nhiễm KSTSR rồi cho đốt người, tác giả Granharm cũng đã chứng minh rằng các loài KSTSR ở khỉ như P. iuni,, P. knowlesi đều có khả năng truyền bệnh cho người. Ca bệnh nhiễm P. knowlesi ở người được mô tả đầu tiên vào năm 1965 tại Mỹ, trên một người lính trở về từ Malaysia.
Đến năm 1971, chỉ có 2 trường hợp nhiễm P.knowlesi ở người được báo cáo (Chin, 1965 và Yap, 1971), cả 2 ca đều sống ở bán đảo Malaysia. Sau đó Cox-Sigh đã tiến hành nghiên cứu kéo dài từ tháng 3.2000 đến tháng 11.2002 tại Malaysia, Kết quả cho thấy rằng trong số 208 ca bệnh được chẩn đoán ban đầu là nhiễm P.malariae thì có đến 120 ca được xác định là P.knowlesi bằng kỹ thuật PCR lồng (nested PCR). Nhiều trường hợp nhiễm P. knowlesi sau đó cũng được phát hiện tại Kanip, Sarawak, Malaysia năm 2004. Vào năm này một ca bệnh do loài KSTSR này gây nên cũng được phát hiện trên một bệnh nhân làm việc trong rừng ở biên giới giữa Thái và Myanmar (Jongwutiwes và cs., 2000) và sau đó phát hiện ca bệnh có P.knowlesi tại Philippines.
Tại Việt Nam, đặc biệt tại khu vực các tỉnh ven biển miền Trung Việt Nam, nhiều nghiên cứu tập trung và kéo dài nhiều năm có sự tài trợ về mặt kỹ thuật chuyên môn và kinh phí nghiên cứu theo dõi đã cho ra các kết quả bước đầu có mặt loài P. knowlesi tại tỉnh Ninh Thuận và Khánh Hòa, các kết quả này đăng tải trên các tạp chí y học nổi tiếng trong chuyên ngành sốt rét và sinh học phân tử. Do đó, việc nghiên cứu mở rộng với nhiều khía cạnh khác nhau về dịch tễ học, trung gian truyền bệnh, sinh thái vector, bệnh học, lâm sàng, chẩn đoán và điều trị cần có đầu tư kinh phí và hỗ trợ từ nhiều dự án nước ngoài. Vì tính chất đặc hữu ở khỉ nhưng nay đã truyền sang người và đã có những ca bệnh đầu tiên tử vong do sốt rét P. knowlesi tại một số quốc gia trên thế giới, nên việc nghiên cứu là cần thiết và cấp bách.
Nguồn gốc P. falciparum trên người là từ khỉ độtchứ không phải trên loài tinh tinh!
Công bố trên đăng tải trên tạp chí Nature 467, 420-425 (23.09.2010) với tựa đề “Origin of the human malaria parasite Plasmodium falciparum in gorillas”. Đây là một công trình nghiên cứu đồ sộ và quy tụ nhiều nhà khoa học có tiếng trên toàn thế giới để xác định nguồn gốc loài ký sinh trùng vỗn dĩ từ lâu gây ra quá nhiều tử vong sốt rét.
Các tác giả gồm: Weimin Liu, Yingying Li, Gerald H. Learn, Joel D. Robertson (Khoa y, đại họcAlabama tại Birmingham, Alabama, Mỹ), Rebecca S. Rudicell (Khoa vi trùng học, đại học Alabama,Birmingham, Alabama, Mỹ), Brandon F. Keele (Thuộc chương trình virus HIV và ung thư, trung tâm ứng dụng khoa học Science Applications International Corporation-Frederick Inc., Mỹ), Jean-Bosco N. Ndjango (Khoa sinh thái và quản lý môi trường nguồn động vật, đại học Kisangani, Kisangani, cộng hòa Congo), Crickette M. Sanz (Trung tâm bảo tồn động vật hoang dại, Brazzaville, Congo), David B. Morgan (Trung tâm Lester E. Fisher về nghiên cứu và bảo tồn khỉ, vườn thú Lincoln Park Zoo, Chicago, Illinois, Mỹ), Sabrina Locatelli (Viện nghiên cứu phát triển, đại họcMontpellier), Mary K. Gonder , Philip J. Kranzusch, Peter D. Walsh, Eric Delaporte, Eitel Mpoudi-Ngole, Alexander V. Georgiev, Martin N. Muller, George M. Shaw, Martine Peeters, Paul M. Sharp, Julian C. Rayner và Beatrice H. Hahn (hiện đang công tác tại khoa nhân chủng học, đại học Washington, Saint Louis, Missouri, Mỹ; khoa vi trùng và di truyền phân tử, đại học y khoa Harvard, Boston, Massachusetts, Mỹ; Trung tâm nghiên cứu vaccine khỉ VaccinApe, Bethesda, Maryland, Mỹ; Viện nghiên cứu y học và y sinh thực vật học, phòng bệnh của SIDA tại SIDA ở Cameroun, khoa sinh học tiến hóa con người, đại học Harvard, Cambridge, Massachusetts, Mỹ; khoa nhân chủng học, đại học New Mexico, Albuquerque, Mỹ; Viện sinh học tiến hóa và trung tâm miễn dịch, nhiễm trùng đại học Edinburgh, Anh; Viện nghiên cứu sốt rét Sanger, viện Wellcome Trust Sanger, Cambridge, Anh.
Kết quả công trình nghiên cứu cho biết Plasmodium falciparum là loài ký sinh trùng lưu hành rộng nhất và có nguy cơ gây tử vong cao nhất khi nhiễm ở người, tuy nhiên, nguồn gốc và lịch sử tiến hóa của tác nhân sinh bệnh quan trọng của chúng vẫn còn đang tranh luận. Ở đây, nhóm nghiên cứu đã triển khai một chiến lược khuếch đại bộ gen đơn để xác định đặc điểm chi tiết của Plasmodium spp. Trình tự DNA trong các mẫu phân của các khỉ sống hoang dại. Trong số gần 3.000 mẫu thu thập tại thực địa khắp Trung Phi, các nhà khoa học đã tìm thấy nhiễm Plasmodium trên loài tinh tinh (Pan troglodytes) và khỉ đột gorillas miền tây (Gorilla gorilla), chứa không phải trên các khỉ đột miền đông gorillas (Gorilla beringei) hay bonobos (Pan paniscus). Nhiễm trùng các Plasmodium trên khỉ không đuôi lưu hành cao, phạm phân bố vi rộng và hầu như luôn luôn nhiễm phối hợp nhiều loài ký sinh trùng.
Tài liệu tham khảo
1.Triệu Nguyên Trung, Huỳnh Hồng Quang, Phạm Văn Thân (2012). Nhân một trường hợp bệnh nhân nhiễm loài ký sinh trùng sốt rét Plasmodium knowlesi tại Việt Nam: Tổng quan tài liệu và thông tin y học thế giới. Báo cáo khoa học về sinh thái và tài nguyên sinh vật. Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ 4, Hà Nội, 21/10/2011, NXB nông nghiệp, trang 1866-1873
2.Bronner U., Divis P.C., Farnert A., Singh B., 2009: Swedish traveller with P.knowlesi malaria after visiting Malaysian Borneo. Malar J. 8: 15.
3.Cox-Singh J, Davis TM, Lee KS., 2008: P. knowlesi malaria in humans is widely distributed and potentially life threatening. Clin. Infect. Dis. 46(2): 165-171.
4.Cox-Singh J, Hiu J, Lucas SB., 2010. Severe malaria - a case of fatal Plasmodium knowlesi infection with post-mortem findings: a case report. Malar J. 9(1):10
5.Daneshvar C., Davis T.M.E., Cox-Singh J., et al., 2009: Clinical and Laboratory Features of Human Plasmodium knowlesi Infection. Clin Infect Dis 49(6): 852–860.
6.McCutchan TF, Piper RC, Makler MT., 2008: Use of malaria rapid diagnostic test to identify Plasmodium knowlesi infection. Emerg Infect Dis 14(11): 1750-1752.
7.Peter Van de Eede1, Hong Nguyen Van, Chantal Van Overmeir, Indra Vythilingam, Thang Ngo Duc, Hung Le Xuan, Hung Nguyen Manh, Umberto D'alseeandro, Annette Erhart., 2009: First report on human P. knowlesi infections in Vietnam. Malar J. 2009; 8: 249.
8.Lee K.S., Cox-Singh J., Brooke G., Matusop A., Singh B., 2009: P. knowlesi from archival blood films: Further evidence that human infections are widely distributed and not newly emergent in Malaysian Borneo. Int J Parasitol.
SIMIAN MALARIA DUE TO Plasmodium knowlesiIN VIETNAM:
WORLD MEDICAL LITERATURE REVIEW AND UPDATE
Abstracts
The genus Plasmodium includes many species that naturally cause malaria among apes and monkeys. The discovery of people infected by Plasmodium knowlesi in Malaysian Borneo alerted to the potential for non-human species of plasmodia to cause human morbidity and mortality. Endemic zoonoses represent an important segment of the range of health risks faced by everyone. Two research reportedrecently (in Ninh Thuan and Khanh Hoa provinces, Central part of Vietnam) published on the medical literature confirmed that P. knowlesi presented in Vietnam. Therefore, a setting question that needs answering: Is there a possibily that species belonging to the An. leucosphyrus group which exists in Central Vietnam can transmit P. knowlesi from monkeys to humans? In the pathological aspect, P. knowlesi malaria can cause severity and mortality to patients, human P. knowlesi malaria now is tropical disease problem that we must be done deeply as wide- spreading and life-threatening risks on human being. So, in this review, we want to share some generalised and updated information from medical literatures on the new species of malaria parasites.
Key words: Plasmodium knowlesi, apes and monkeys