Mặc dù là khu vực trọng điểm sốt rét, chiếm trên 70% số ca mắc và tử vong sốt rét cả nước nhưng năm 2015 cũng như 5 năm (2011-2015) ghi nhận sự thành công vượt bậc của miền Trung-Tây Nguyên khi các chỉ số sốt rét giảm khoảng 50% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, khu vực này vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức do điều kiện tự nhiên thuận lợi cho bệnh sốt rét phát triển, chỉ số sốt rét lưu hành nặng, biến động dân số lớn, P.falciparum kháng thuốc hiệu lực cao artemisinin, đặc biệt là đã xuất hiện sự chủ quan ở một số tuyến điều trị làm ảnh hưởng đến kết quả phòng chống và loại trừ sốt rét ngay từ đầu năm 2016.
Năm 2015 là năm cuối cùng thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) và cũng kết thúc giai đoạn 5 năm phòng chống và loại trừ sốt rét (2011-2015) nhưng các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng vẫn tổ chức hội nghị tổng kết sốt rét tại từng khu vực: miền Bắc (3/3/2016), miền Trung-Tây Nguyên (10/3/2016), Nam bộ-Lâm Đồng (11/3/2016) được coi là nét đổi mới trong cách tổ chức hội nghị để các tỉnh trọng điểm sốt rét có cơ hội phát biểu tham luận và thảo luận về những khó khăn trong hoạt động phòng chống sốt rét tại đia phương mình. Theo đó “Hội nghị tổng kết công tác phòng chống, loại trừ sốt rét và giun sán giai đoạn 2011-2015, định hướng kế hoạch 2016-2020 và đến 2030 khu vực miền Trung-Tây Nguyên” được tổ chức tại thành phố Quy Nhơn (tỉnh Bình Định) với sự tham dự và chỉ đạo của GS.TS. Nguyễn Thanh Long-Thứ trưởng Bộ Y tế, PGS.TS. Trần Đắc Phu-Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), Viện trưởng và lãnh đạo các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng, Lãnh đạo các Sở Y tế, Lãnh đạo Trung tâm Phòng chống sốt rét/Trung tâm Y tế dự phòng, đại diện một số đơn vị quân y đóng trên địa bàn miền Trung-Tây Nguyên cùng các cơ quan thông tin đại chúng thường trú tại địa phương cũng có mặt và đưa tin hội nghị. Hội nghị đã nghe Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn báo cáo tổng kết công tác phòng chống sốt rét 5 năm (2011-2015) và kế hoạch hoạt động năm 2016 của khu vực miền Trung-Tây Nguyên, báo cáo của Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương về công tác phòng chống và loại trừ sốt rét trên cả nước năm 2015 và tham luận của Viện Sốt rét-KST-CT TP. Hồ Chí Minh về tình hình sốt rét khu vực Nam bộ-Lâm Đồng. |
PGS.TS. Nguyễn Văn Chương-Viện trưởng Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn phát biểu khai mạc Hội nghị |
Hội nghị cũng nghe đại diện Sở Y tế các tỉnh trọng điểm sốt rét Gia Lai, Phú Yên và Đắc Nông đã tham luận về những khó khăn và kinh nghiệm trong quản lý sốt rét, nguyên nhân tử vong sốt rét và biện pháp khắc phục. Hội nghị ghi nhận những nỗ lực của đội ngũ cán bộ chuyên ngành cùng các tuyến y tế trong 5 năm qua đã làm giảm 50% số mắc sốt rét và đưa con số tử vong xuống mức thấp nhất so với nhiều năm trước đây, nhân dịp hội nghị tổng kết Lãnh đạo Bộ Y tế đã công bố quyết định khen thưởng và trao Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Y tế cho các tập thể và cá nhân trong các đơn vị y tế khu vực miền Trung-Tây Nguyên đã có nhiều thành tích đóng góp trong công tác phòng chống sốt rét giai đoạn 5 năm (2011-2015). |
GS.TS. Nguyễn Thanh Long-Thứ trưởng Bộ Y tế trao Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Y tế cho các cá nhân đã có nhiều thành tích đóng góp trong công tác phòng chống sốt rét giai đoạn 5 năm (2011-2015) của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn |
Tình hình sốt rét năm 2015 và giai đoạn 5 năm (2011-2014)
Tình hình sốt rét cả nước năm 2015 so với 2014
Theo báo cáo của Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương, các chỉ số sốt rét cả nước năm 2015 so với cùng kỳ 2014 đều giảm mạnh: bệnh nhân sốt rét (BNSR) giảm 30,92% (19.252/27.868); ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) giảm 40,76% (9.331/15.752); sốt rét ác tính (SRAT) giảm 56,16% (32/73); tử vong sốt rét (TVSR) giảm 50% (3/6) và không có dịch sốt rét xảy ra trên địa bàn cả nước, trong 3 ca TVSR khu vực miền Trung-Tây Nguyên chiếm 1 ca (Đắc Lắc), còn lại 2 ca ở miền Bắc (Tuyên Quang) và miền Nam (Bình Phước). Đặc biệt là các chỉ số giảm mắc (BNSR và KSTSR) tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên năm 2015 giảm gần 50% so với 2014: BNSR toàn khu vực giảm 47,23% (7.644/14.486); trong đó miền Trung giảm 45,42% (3.507/6.425) và Tây Nguyên giảm 48.68% (4.137/8.061). KSTSR toàn khu vực giảm 48,21% (0,58/1,12); trong đó miền Trung giảm 46,74% (0,49/0,92) và Tây Nguyên giảm 47,76% (0,70/1,34). Mặc dù các chỉ số này đang giảm mạnh ở miền Trung-Tây Nguyên nhưng số lượng ca bệnh vẫn luôn chiếm tỷ lệ cao so với các khu vực khác trong nước, đặc biệt là tác nhân gây bệnh (KSTSR).
So sánh chỉ số KSTSR giữa các khu vực trong cả nước năm 2015
Khu vực | So sánh KSTSR theo khu vực | Tỷ lệ tăng, giảm (2015/2014) |
Năm 2015 | Năm 2014 |
Miền Trung-Tây Nguyên | 6.743 (72,27%) | 13.269 (84,24%) | - 48,21% |
Miền Nam | 2.096 (22,46%) | 2.012 (12,77%) | + 4,18% |
Miền Bắc | 492 (5,27%) | 471 (2,99) | + 4,46% |
Cộng cả nước | 9.331 | 15.752 | -40,76% |
Bảng trên cho thấy chỉ số KSTSR khu vực miền Trung-Tây nguyên năm 2015 giảm 48,21% so với năm 2014, trong khi ở khu vực Nam bộ-Lâm Đồng tăng 4,18% và miền Bắc tăng 4,46%. Tuy nhiên, số ca KSTSR luôn chiếm tỷ lệ cao ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên qua các năm như 72,27% (năm 2015) và 84,24% (năm 2014) so với các khu vực khác trong nước; trong đó 9 tỉnh khu vực miền Trung-Tây Nguyên nằm trong danh sách 10 tỉnh có tỷ lệ KSTSR/dân số chung cao nhất cả nước trong năm 2015.
Danh sách 10 tỉnh có tỷ lệ KSTSR/dân số chung cao nhất nước năm 2015
Theo số liệu của Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương năm 2016)
Số TT | Tỉnh | Dân số chung | Dân số SRLH | Số KSTSR | Tỷ lệ KSTSR/Dân số chung |
1 | Bình Phước | 948.352 | 820.497 | 1.799 | 1,90 |
2 | Gia lai | 1.406.542 | 971.274 | 2.215 | 1,57 |
3 | Ninh Thuận | 632.962 | 234.170 | 551 | 0,87 |
4 | Đắc Nông | 563.936 | 551.787 | 379 | 0,67 |
5 | Khánh Hòa | 1.238.640 | 190.980 | 756 | 0,61 |
6 | Phú Yên | 922.364 | 315.558 | 479 | 0,52 |
7 | Đắc Lắc | 1.881.823 | 1.484,415 | 779 | 0,41 |
8 | Quảng Bình | 916.927 | 417.437 | 369 | 0,40 |
9 | Kon Tum | 485.000 | 426.408 | 179 | 0,37 |
10 | Bình Thuận | 1.236.383 | 679.514 | 343 | 0,28 |
Trong số 10 tỉnh trên có hai tỉnh số lượng KSTSR cao nhất là Gia Lai (2.215) và Bình Phước (1.799), 8 tỉnh còn lại có số KSTSR thấp hơn từ 779 (Đắc Lắc) trở xuống 179 (Kon Tum).
Cơ cấu KSTSR trong cả nước trong năm 2015: (P.falciparum 46%, P.vivax 51%, P.malariae 0,001%, phối hợp P.f/P.v 3%) nhưng có sự khác nhau giữa các khu vực: miền Trung-Tây Nguyên (P.falciparum 43,8%, P.vivax 54,3%, P.malariae 0,07%, phối hợp P.f/P.v 1,79%), miền Nam (P.falciparum 53,29%, P.vivax 41,98%, phối hợp P.f/P.v 4,72%) và miền Bắc(P.falciparum 52,03%, P.vivax 43,29%, P.malariae 1,83%, phối hợp P.f/P.v 2,85%).
Trong thời kỳ sốt rét giảm thấp, tử vong sốt rét hàng năm dao động vài ca trong tầm kiểm soát dịch bệnh là bình thường nhưng không thể chấp nhận những cái chết vô lý do bệnh nhân không đến cơ sở y tế để được khám và điều trị hoặc thầy thuốc chẩn đoán sai dẫn đến biến chứng muộn và điều trị muộn. Phân tích nguyên nhân 3 trường hợp TVSR tại Đăk Lăk 2015 (1 ca) và Phú Yên năm 2016 (2 ca) đều thấy các lỗi sơ đẳng nêu trên từ cả hai phía bệnh nhân đến viện muộn và y tế chẩn đoán nhầm bệnh khác nên không kịp thời điều trị đặc hiệu dẫn đến bệnh tiến triển nặng và tử vong.

Truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét cho cộng đồng được co là biện pháp thứ ba trong Chiến lược phòng chống và loại trừ sốt rét
Tình hình sốt rét cả nước giai đoạn 5 năm (2011-2015)
Chỉ số đánh giá tình hình sốt rét cả nước qua các năm 201-2015 (Theo số liệu của Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương năm 2016)
Chỉ số | Diễn biến qua các năm | Tỷ lệ tăng/giảm (%) |
2011 | 2012 | 2013 | 2014 | 2015 |
Số BNSR | 45.588 | 43.717 | 35.406 | 27.868 | 19.252 | -57,8 |
BNSR/1000 | 0,52 | 0,49 | 0,39 | 0,30 | 0,21 | -59,9 |
Số KSTSR | 16.612 | 19.638 | 17.128 | 15.752 | 9.331 | -43,9 |
KSTSR/1000 | 0,19 | 0,22 | 0,19 | 0,17 | 0,10 | -46,3 |
Số TVSR | 14 | 8 | 6 | 6 | 3 | -78,6 |
TVSR/100.000 | 0,02 | 0,01 | 0,01 | 0,01 | 0,003 | -83,3 |
Số vụ dịch sốt rét | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | |
Bảng trên cho thấy trong giai đoạn 5 năm (2011-2015) các chỉ sốt rét trên toàn quốc đều giảm rất mạnh, trong đó các chỉ số giảm mắc (BNSR và KSTSR) giảm gần 60% và giảm chết gần 80%, không có dịch sốt rét xảy ra. Đặc biệt là các chỉ số sốt rét ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên năm 2015 so với 2011: BNSR giảm 53,78% (7.644/16.539); KSTSR giảm 42,71% (6.501/11.348); SRAT giảm 84,38% (15/96); TVSR giảm 5 ca (1/6), không có dịch sốt rét xảy ra.
- BNSR năm 2015 so với 2011: Khu vực miền Trung giảm -58,08% (3.507/8.365); Tây Nguyên giảm -49,39% (4.137/8.174); chỉ số BNSR ở 15 tỉnh đều giảm mạnh theo thứ tự từ cao xuống thấp là Quảng Trị -86,71% (149/1.121); Quảng Nam -82,74% (170/985); TP. Đà Nẵng -81,82% (8/44); Bình Định -77,80% (125/563); Quảng Ngãi -66,67% (69/207); Kon Tum -64,49% (512/1.442); Thừa Thiên-Huế -59,26% (66/162); Đăk Lăk -55,42% (1.000/2.243); Đăk Nông -55,19% (380/848); Khánh Hòa -52,94% (767/1.630); Bình Thuận -51,94% (346/720); Ninh Thuận -49,96% (591/1.181); Quảng Bình -40,59% (609/1.025); Gia Lai -38,34% (2.245/3.641); Phú Yên -16,51% (607/727).
|
Bệnh nhân sốt rét được đưa đến trạm y tế khám và điều trị |
- KSTSR năm 2015 so với 2011: Khu vực miền Trung giảm -48,50% (2.948/5.724); Tây Nguyên giảm -36,84% (3.552/5.624); ở các địa phương duy nhất chỉ có tỉnh Quảng Bình tăng +37,69% (369/268); 14 tỉnh còn lại KSTSR giảm, trong đó 8 tỉnh giảm ≥ 50% bao gồm Quảng Trị -89,25% (92/856); TP. Đà Nẵng -81,58% (7/38); Bình Định -78,16% (114/522); Kon Tum -73,79% (179/683); Quảng Nam -70,77% (152/520); Thừa Thiên-Huế -65,45% (38/110); Quảng Ngãi -65,22% (48/138); Bình Thuận -51,76% (343/711) và 6 tỉnh giảm < 50% bao gồm Đăk Lăk -45,68% (779/1.434); Ninh Thuận -42,42% (551/957); Đăk Nông -35,43% (379/587); Khánh Hòa -29,94% (756/1.079); Gia Lai -24,14% (2.215/2.920); Phú Yên -8,76% (479/525).
Trong giai đoạn 5 năm (2011-2015), cơ cấu KSTSR ở khu vực có xu hướng giảm qua các năm đến năm 2015 tỷ lệ P.falciparum (44,32%) và P.vivax (53,85%) đảo ngược so với năm 2011 P.falciparum (65,32%) và P.vivax (29,47%). Điều này chứng tỏ rằng các biện pháp can thiệp áp dụng trong chương trình sốt rét có hiệu quả và phù hợp với chỉ số sốt rét giảm qua các năm khi P.falciparum là chủng ký sinh trùng gây sốt rét ác tính và tử vong, đồng thời đa kháng thuốc sốt rét kể cả với thuốc có hiệu lực cao như Artemisinine đang có xu hướng giảm thấp. Tuy nhiên, cơ cấu chủng loại P.vivax tăng cao hơn trước đây cũng đặt ra một thách thức lớn vì chủng này có thể ẩn hoặc thể ngủ (Hypnozoite) gây tái phát xa đòi hỏi phải điều trị bằng thuốc Primaquine dài ngày (14 ngày) nên rất khó thực hiện trong cộng đồng.
|
Xét nghiệm lam máu và phát hiện bệnh sốt rét tại cộng đồng |
Những thách thức trong phòng chống và loại trừ sốt rét
Mặc dù các chỉ sốt rét giảm sâu nhưng chưa thật sự bền vững, nhất là ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên có đặc điểm tự nhiên và khí hậu thuận lợi cho bệnh sốt rét lưu hành và phát triển quanh năm; theo đó vùng trọng điểm sốt cũng là vùng rừng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo cao, dân trí thấp và chưa có ý thức tự bảo vệ phòng chống sốt rét, khi có sốt chưa chủ động đến cơ sở y tế để được khám và điều trị dẫn đến biến chứng nặng và tử vong. Cùng với đó, tình trạng di biến động dân số khó kiểm soát lớn (dân di cư tự do, dân đi rừng, làm rẫy/ngủ rẫy, dân giao lưu biên giới, làm thuê theo mùa vụ ở những vùng sốt rét lưu hành…), số liệu thống kê sốt rét hàng năm cho thấy hầu hết số ca mắc sốt rét và chết sốt rét trong cả nước hàng năm đều tập trung chủ yếu ở những đối tượng này.
Các vấn đề khó khăn kỹ thuật cũng là những thách thức không nhỏ trong quá trình phòng chống sốt rét, đặc biệt là chủng ký sinh trùng P.falciparum đã phát triển kháng với thuốc sốt rét có hiệu lực cao artemisinin ở Tiểu vùng sông Me Kong (GMS) trong đó có Việt Nam và đa kháng thuốc (multi-drug resistance) khó khăn cho điều trị sốt rét và sốt ác tính; khó khăn hơn là chủng này ngày càng có nguy cơ lan rộng do quá trình di biến động ngoài tầm kiểm soát y tế. Bên cạnh đó, trong quá trình sử dụng các biện pháp phòng chống véc tơ như dùng màn tẩm, phun tồn lưu hóa chất diệt côn trùng trong nhà (IRS).. làm cho muỗi Anopheles thay đổi tập tính trú đậu, tìm mồi hút máu và kháng hóa chất diệt côn trùng.
|
Toàn cảnh Hội nghị tổng kết công tác phòng chống, loại trừ sốt rét và giun sán giai đoạn 2011-2015, định hướng kế hoạch 2016-2020 và đến 2030 khu vực miền Trung-Tây Nguyên |
Một thách thức lớn thường xảy ra trong quá trình phòng chống bệnh dịch là nảy sinh tư tưởng chủ quan khi dịch bệnh đang bị đẩy lùi, điều này không chỉ xảy ra ở cộng đồng mà còn ở các nhà quản lý khi có lúc chương trình sốt rét bị đe dọa xóa số, nguồn lực bị cắt giảm hoặc cung cấp nhỏ giọt không đảm bảo nhu cầu thực hiện, thiếu sự quan tâm chỉ đạo ở các vùng sốt rét giảm thấp. Thậm chí thách thức này ở cả cán bộ y tế minh chứng qua 3 trường hợp tử vong gần đây, dù sao đó cũng là bài học và tiếng chuông cảnh tỉnh cho sự chủ quan, sao nhãng và lơ là với sốt rét.

Xét nghiệm lam máu tìm ký sinh trùng sốt rét tại bệnh viện
Định hướng phòng chống và loại trừ sốt rét
Từ kết quả phòng chống sốt rét đạt được cùng những khó khăn thách thức nêu trên, kế hoạch quốc gia phòng chống sốt rét năm 2016 vẫn tiếp tục mục tiêu đẩy lùi sốt rét ở những vùng sốt rét nặng, có sốt rét kháng thuốc và đối tượng nguy cơ cao, củng cố các yếu tố bền vững, ngăn chặn sốt rét quay trở lại và hướng tới loại trừ sốt rét. Các chỉ tiêu cụ thể cho mục tiêu này bao gồm không để dịch lớn xảy ra; tỷ lệ TVSR < 0,02/100.000 dân số chung; tỷ lệ mắc sốt rét < 0,31/1.000 dân số chung; ít nhất 20 tỉnh, 200 huyện đạt các chỉ tiêu loại trừ sốt rét; đảm bảo độ bao phủ > 90% dân số trong các vùng sốt rét lưu hành vừa và nặng được bảo vệ bằng biện pháp phun tồn lưu hóa chất và tẩm màn. Thực hiện phun tẩm bổ sung cho các vùng có nguy cơ gia tăng sốt rét, vùng có sốt rét kháng thuốc và sốt rét nặng bảo vệ cho 2.746.500 lượt người trong năm 2016, trong đó 802.500 lượt người bảo vệ bằng phun tồn lưu hóa chất, 1.944.500 lượt người bảo vệ bằng tẩm màn; số lam xét nghiệm tìm KSTSR 2.261.500 lam.

Tiếp tục phun tồn lưu hóa chất trong nhà diệt muỗi truyền bệnh sốt rét
Cùng với mục tiêu và chỉ tiêu phòng chống & loại trừ sốt rét nêu trên, Việt Nam là một trong những quốc gia thuộc GMS đang thực hiện Chiến lược kỹ thuật sốt rét toàn cầu (Global Technical Strategy for Malaria) của WHO giai đoạn 2016-2030 được Đại hội đồng y tế thế giới (WHA) thông qua, cụ thể là “Chiến lược loại trừ sốt rét tại các nước Tiểu vùng sông Me Kong (GMS) 2015-2030”; đồng thời đang xây dựng kế hoạch hành động quốc gia phòng chống và loại trừ sốt rét giai đoạn 2016-2020, định hướng đến 2030 cùng với Dự án “Tăng cường phòng chống sốt rét dựa vào cộng đồng tập trung vào các nhóm có nguy cơ cao, nâng cao năng lực và tính bền vững của chương trình phòng chống sốt rét quốc gia giai đoạn 2016-2017” do Quỹ Toàn cầu phòng chống AIDS, Lao và sốt rét (The Global Fund to Fight AIDS, Tuberculosis and Malaria) tài trợ sẽ là cơ hội cũng như điều kiện thuận lợi để hướng đến loại trừ sốt rét trong nhiều năm tới.

Tẩm màn và cấp màn tẩm phòng chống muỗi đốt cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa
Thay cho lời kết
Phát biểu chỉ đạo hội nghị, PGS.TS. Nguyễn Thanh Long-Thứ trưởng Bộ Y tế đánh giá cao thành quả sốt rét đạt được khi giảm được 50% số mắc sốt rét và số chết tiến gần tới 0 (rezo) là một sự nỗ lực lớn của đội ngũ cán bộ y tế các tuyến cũng như cán bộ chuyên khoa sốt rét; đồng thời xác định khu vực miền Trung-Tây Nguyên vẫn là trọng điểm sốt rét của cả nước, nhất là cần chấn chỉnh một số tuyến bệnh viện để xảy ra những ca tử vong không đáng có trong khi tình hình sốt rét kháng thuốc vẫn đang đe dọa thành quả sốt rét. Thứ trưởng Bộ Y tế cho rằng du sao những ca tử vong này cũng là bài học cần thiết để các tỉnh triển khai các biện pháp tích cực ngay từ đầu năm, điều chỉnh kế hoạch phòng chống sốt rét phù hợp, ưu tiên vật tư kinh phí cho các vùng trọng điểm; các địa phương phải phân tích rõ nguyên nhân sốt rét gia tăng tại địa phương để có biện pháp cacn thiệp phù hợp.

GS.TS. Nguyễn Thanh Long-Thứ trưởng Bộ Y tế phát biểu chỉ đạo Hội nghị
Các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng cần xem xét tăng độ bao phủ người dân được bảo vệ bằng các biện pháp PCSR (phòng chống véc tơ, điều trị diệt mầm bệnh); tăng cường giám sát hoạt động chẩn đoán tại các tuyến, nhất là chẩn đoán ký sinh trùng, tất cả người dân đi từ vùng sốt rét lưu hành về cần được xét nghiệm kể cả châu Phi về, tổ chức tập huấn điều trị lại cho tất cả các tuyến kể cả y tế tư nhân; tăng cường quản lý đối tượng, hướng dẫn họ đến cơ sở y tế để được khám và điều trị khi có sốt, cấp màn tẩm hóa chất cho người dân, lựa chọn loại màn phù hợp thực tế điều kiện nước ta để người dân sử dụng; đánh giá chất lượng chuyên môn bao gồm điểm kính hiển vi phát hiện ký sinh trùng sốt rét và vấn đề kháng thuốc sốt rét.