Ngày 14/10/2015. Theo bản đánh giá (Reviewed)Fact sheet N°94 tháng 10/2015 của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), từ năm 2000 đến 2015 tỷ lệ mắc sốt rét (malaria incidence) hay các ca mới (new cases) giảm 37% trên toàn cầu. Cùng thời gian này, tỷ lệ tử vong sốt rét giảm tới 60% ở tất cả các nhóm tuổi và 65% ở trẻ em dưới 5 tuổi. Tuy nhiên, gánh nặng sốt rét vẫn cao nhất ở vùng cận Saharan châu Phi chiếm 89% số ca sốt rét và 91% số tử vong sốt rét toàn cầu trong năm 2015.
Thông tin sốt rét cập nhật tháng 10 năm 2015
Tình hình sốt rét (Malaria situation)
Theo Báo cáo cập nhật của WHO, sốt rét là một căn bệnh đe dọa tính mạng con người do tác nhân gây bệnh là ký sinh trùng sốt rét (Plasmodium) được truyền sang người qua vết đốt của muỗi cái Anopheles bị nhiễm bệnh gọi là vector sốt rét (malaria vectors). Có 5 loài ký sinh trùng sốt rét gây bệnh ở người(P. falciparum, P. vivax, P. malariae, P. ovale và P. knowlesi), trong số đó 2 loài nguy hiểm nhất là P. falciparum phổ biến ở lục địa châu Phi và là tác nhân chính gây tử vong sốt rét toàn cầu; P. vivax có sự phân bố rộng hơn so với P. falciparum và chiếm ưu thế ở nhiều quốc gia ngoài châu Phi; còn P. knowlesi là loại ký sinh trùng sốt rét ở khỉ có khả năng lây nhiễm sang người đã được xác định ở một số quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Trên thế giới có khoảng 3,2 tỷ người-gần một nửa dân số thế giới có nguy cơ mắc bệnh sốt rét; trong đó trẻ em, phụ nữ mang thai và du khách không có miễn dịch từ các vùng không có sốt rét rất dễ bị nhiễm bệnh khi vào vùng sốt rét lưu hành. Tuy nhiên, bệnh sốt rét có thể ngăn ngừa, chữa trị được và những nỗ lực gia tăng đang làm giảm đáng kể gánh nặng sốt rét ở nhiều nơi.
|
| Báo cáo sốt rét theo mục tiêu thiên niên kỷ (MDG6) của WHO trong năm 2015 |
Ở Việt Nam, theo báo cáo của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương (NIMPE) từ năm 2000 đến nay số ca sốt rét giảm trên 75% và tử vong giảm trên 90%. Hiện nay có khoảng 11,7 triệu người chiếm 13% dân số đang sống trong các vùng sốt rét lưu hành từ nhẹ đến nặng, chủ yếu là các tỉnh Tây Nguyên, ven biển miền Trung, miền Đông Nam bộ, khu IV cũ và một số tỉnh miền núi phía Bắc. Tại những vùng được bao phủ biện pháp phòng chống sốt rét bảo vệ (phun tồn lưu, tẩm màn hóa chất, phát hiện và điều trị ca bệnh) thì bệnh sốt rét hầu như giảm hẳn, số ca mắc và tử vong do sốt rét hiện nay chủ yếu xảy ra ở các nhóm dân di biến động (dân đi rừng, làm rẫy/ngủ rẫy, di cư tự do, giao lưu biên giới…) hoặc người dân tộc thiểu số ở các vùng sâu/vùng xa không có biện pháp bảo vệ hiệu quả. WHO nhận định đây là một thành tựu đáng kể của Việt Nam, tuy nhiên để duy trì thành quả đã đạt được cũng như “đánh bại” (defeat malaria) hoàn toàn bệnh sốt rét cần có các chiến lược trọng điểm.
Các triệu chứng (Symptoms)
Sốt rét là một bệnh truyền nhiễm gây sốt cấp tính, đối với một cá thể không có miễn dịch, các triệu chứng xuất hiện 7 ngày hoặc lâu hơn (thường từ 10-15 ngày) sau khi muỗi bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét đốt người. Các triệu chứng đầu tiên của bệnh sốt rét bao gồm sốt, đau đầu, ớn lạnh và nôn-có thể biểu hiện nhẹ và khó nhận ra là sốt rét. Nếu không được điều trị trong vòng 24 giờ, P. falciparum có thể tiến triển thành biến chứng nặng, dẫn đến tử vong. Trẻ em bị sốt rét nặng thường xuyên phát triển một hoặc nhiều hơn các triệu chứng như thiếu máu nặng (severe anaemia), suy hô hấp liên quan đến nhiễm toan chuyển hóa (respiratory distress in relation to metabolic acidosis) hoặc sốt rét thể não (cerebral malaria). Ở người lớn có thể xảy ra biến chứng ở nhiều cơ quan (multiple organ failure_MOF), người dân sống trong các vùng sốt rét lưu hành có thể phát triển một phần khả năng miễn dịch khi xét nghiệm máu thấy nhiễm ký sinh trùng sốt rét nhưng không có biểu hiện triệu chứng (ký sinh trùng lạnh).
Ai là đối tượng có nguy cơ? (Who is at risk?)
Theo WHO, năm 2015 còn 97 quốc gia và vùng lãnh thổ đang có sự lan truyền bệnh sốt rét với khoảng 3,2 tỉ người có nguy cơ mắc bệnh sốt rét-chiếm gần một nửa dân số thế giới. Hầu hết các trường hợp mắc bệnh sốt rét và tử vong xảy ra ở Tiểu vùng Saharan châu Phi nhưng châu Á, Mỹ Latin và thấp hơn là Trung Đông và châu Âu cũng có nguy cơ. Một số nhóm dân số có nguy cơ mắc bệnh sốt rét cao hơn một cách đáng kể và phát triển thành bệnh nghiêm trọng hơn những người khác như trẻ sơ sinh, trẻ em dưới 5 tuổi, phụ nữ mang thai và bệnh nhân HIV/AIDS cũng như những người di cư không có miễn dịch (non-immune migrants), nhóm dân di biến động và khách du lịch (mobile populations and travellers). Chương trình phòng chống sốt rét quốc gia (NMCP) cần phải có các biện pháp đặc biệt để bảo vệ những nhóm quần thể này không bị nhiễm sốt rét và cân nhắc các biện pháp bảo vệ theo hoàn cảnh cụ thể của họ.
Gánh nặng bệnh tật (Disease burden)
Theo ước tính mới nhất của WHO công bố vào tháng 9/2015, có 214 triệu ca mắc sốt rét và 438.000 trường hợp tử vong do sốt rét trong năm 2015. Từ năm 2000 đến 2015, tỷ lệ mắc sốt rét toàn cầu giảm 37% và tỷ lệ tử vong sốt rét giảm 60% trong cùng thời kỳ, ước tính có khoảng 6,2 triệu ca tử vong sốt rét đã được ngăn chặn trên toàn cầu từ năm 2000. Tuy nhiên, vùng cận Saharan Châu Phi tiếp tục là gánh nặng sốt rét toàn cầu khi chiếm tới 89% số ca mắc sốt rét và 91% số ca tử vong sốt rét trên thế giới trong năm 2015. Khoảng 15 quốc gia, chủ yếu là vùng cận Saharan châu Phi chiếm 80% các ca mắc sốt rét và 78% trường hợp tử vong sốt rét trên toàn cầu. Từ năm 2000, mức giảm tỷ lệ mắc sốt rét ở 15 quốc gia này (32%) đã tụt lại phía sau các nước khác trên toàn cầu (54%). Trong các khu vực có sự lan truyền sốt rét cao, trẻ em dưới 5 tuổi rất dễ bị nhiễm bệnh (infection), bị bệnh (illness) và tử vong (death); hơn hai phần ba (70%) của tất cả các ca tử vong sốt rét xảy ra ở nhóm tuổi này. Từ năm 2000 đến 2015, tỷ lệ tử vong sốt rét ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm 65% trên toàn cầu, tương đương khoảng 5,9 triệu trẻ em được cứu sống.
Sự lan truyền (Transmission)
Hầu hết các trường hợp sốt rét lây truyền qua vết đốt của muỗi cái Anopheles, hiện có hơn 400 loài muỗi Anopheles khác nhau, trong đó khoảng 30 loài là vectơ sốt rét có vai trò truyền bệnh chủ yếu (malaria vectors of major importance). Tất cả các loài vector sốt rét quan trọng đốt mồi vào lúc hoàng hôn và rạng sáng (dusk and dawn). Cường độ lan truyền (intensity of transmission) sốt rét phụ thuộc vào các yếu tố liên quan đến ký sinh trùng (parasite), vector, vật chủ người (human host) và môi trường (environment). Muỗi Anopheles đẻ trứng dưới nước, trứng nở thành ấu trùng, cuối cùng thành muỗi trưởng thành. Muỗi cái tìm kiếm một bữa hút máu để nuôi dưỡng trứng, mỗi loài muỗi Anopheles có môi trường sống dưới nước và có sở thích của riêng mình như một số thích đẻ ở các vũng nước đọng trong rừng, các ổ nước trong dâu chân gia súc và thường phong phú trong mùa mưa ở các nước nhiệt đới. Sự lan truyền mạnh hơn ở những nơi muỗi có tuổi thọ lâu hơn (mosquito lifespan is longer), vì vậy ký sinh trùng có thời gian để hoàn thành sự phát triển của nó bên trong cơ thể muỗi và nơi nó thích đốt người hơn các loài động vật khác. Tuổi thọ dài (long lifespan) và thói quen đốt người mạnh (strong human-biting habit) của các loài vector châu Phi là lý do chính tại sao gần 90% các trường hợp mắc bệnh sốt rét trên thế giới thuộc về châu Phi.
Sự lan truyền cũng phụ thuộc vào điều kiện khí hậu có thể ảnh hưởng đến số lượng và sự sống sót của muỗinhư lượng mưa (rainfall patterns), nhiệt độ (temperature) và ẩmđộ(humidity). Nhiều nơi, sự lan truyền theo mùa ở đỉnh cao ngay trong và sau mùa mưa, dịch bệnh sốt rét có thể xảy ra khi khí hậu và các điều kiện khác đột biến thuận lợi cho sự lan truyền trong vùng-nơi con người miễn dịch thấp hoặc không có miễn dịch với sốt rét; dịch bệnh cũng có thể xảy ra khi những người có khả năng miễn dịch thấp di chuyển vào vùng sốt rét lưu hành nặng tìm kiếm việc làm hoặc tị nạn/di cư tự do. Khả năng miễn dịch của con người (human immunity) là một yếu tố quan trọng, đặc biệt là ở người trưởng thành tại các khu vực có lan truyền sốt rét vừa hoặc nặng (moderate or intense transmission conditions). Miễn dịch một phần (partial immunity) được phát triển qua nhiều năm phơi nhiễm (exposure), trong khi nó không bao giờ cung cấp bảo vệ đầy đủ và làm giảm nguy cơ khi nhiễm bệnh sốt rét (malaria infection) sẽ gây bệnh nặng/trầm trọng (severe disease). Vì lý do đó mà hầu hết các trường hợp tử vong sốt rét ở châu Phi xảy ra ở trẻ nhỏ, trong khi ở các khu vực có sự lan truyền thấp và khả năng miễn dịch thấp thì tất cả các nhóm tuổi đều có nguy cơ.
Phòng chống vector (Vector control)
Phòng chống vector là biện pháp chính nhằm ngăn chặn và làm giảm sự lây truyền bệnh sốt rét, nếu độ bao phủ của các biện pháp can thiệp phòng chống vector trong một khu vực cụ thể đầy đủ thì sau đó là một biện pháp bảo vệ sẽ được thực hiện trên toàn cộng đồng. WHO khuyến cáo bảo vệ cho tất cả những người có nguy cơ mắc bệnh sốt rét bằng hai biện pháp phòng chống vector sốt rét có hiệu quả là màn tẩm hóa chất diệt muỗi (insecticide-treated mosquito nets_ITNs) vàphun tồn lưu hóa chất trong nhà (Indoor spraying with residual insecticides).
Màn tẩm hóa chất diệt muỗi (Insecticide-treated mosquito nets_ITNs)
Màn tẩm hóa chất tồn lưu lâu (Long-lasting insecticidal nets_LLINs) là hình thức thường sử dụng của các chương trình y tế công cộng, ở nhiều vùng WHO khuyến cáo bao phủ màn tẩm cho tất cả những người có nguy cơ cao. Cách chi phí hiệu quả nhất để đạt được điều này là thông qua việc cung cấp LLINs miễn phí và đảm bảo tiếp cận bình đẳng cho tất cả mọi người, cùng với đó cần thực hiện các chiến lược truyền thông thay đổi hành vi hiệu quả (effective behaviour change communication strategies) để đảm bảo bảo vệ tất cả mọi người có nguy cơ mắc bệnh sốt rét ngủ màn LLIN mỗi đêm và được duy trì ngủ màn đúng cách.
Phun tồn lưu hóa chất trong nhà (Indoor spraying with residual insecticides)
Phun tồn lưu hóa chất trong nhà (Indoor residual spraying_IRS) là một biện pháp mạnh nhằm nhanh chóng làm giảm sự lây truyền bệnh sốt rét,tiềm năng đầy đủ của biện pháp này được thực hiện khi ít nhất 80% số nhà trong khu vực đạt chỉ tiêu được phun, phun tồn lưu trong nhà có hiệu quả trong vòng 3-6 tháng tùy vào loại hóa chất được sử dụng và các loại bề mặt được phun.Tại một số nơi, phun nhiều vòng (multiple spray rounds) là cần thiết để bảo vệ quần thể người dân trong toàn bộ mùa sốt rét (entire malaria season).
Kháng hóa chất diệt (Insecticide resistance)
Phần lớn sự thành công trong kiểm soát bệnh sốt rét đến nay là do phòng chống vector hiệu quả, phụ thuộc rất nhiều vào sử dụng các hóa chất nhóm pyrethroid, là lớp hóa chất đang được khuyến nghị du7ngf cho ITN hoặc LLINs. Những năm gần đây, muỗi kháng với pyrethroid đã xuất hiện ở nhiều nước, ở một số vùng kháng với tất cả 4 lớp hóa chất sử dụng trong y tế công cộng đã được phát hiện nhưng rất may là sự đề kháng này hiếm khi liên quan với hiệu quả giảm sút của LLINs và LLINs tiếp tục cung cấp mức độ bảo vệ hiệu quả ở hầu hết mọi nơi, lý do sử dụng các lớp hóa chất diệt khác nhau dùng cho IRS được khuyến cáo như là một cách tiếp cận nhằm giải quyết sự đề kháng với hóa chất diệt. Tuy nhiên, trong nhiều vùng sốt rét lưu hành ở vùng cận Saharan Châu Phi và Ấn Độ đang gây ra mối quan tâm đáng kể do mức độ lan truyền sốt rét cao và các báo cáo về kháng hóa chất diệt phổ biến. Việc sử dụng hai loại hóa chất khác nhau trong tẩm màn chống muỗi cung cấp một cơ hội để giảm thiểu nguy cơ phát triển và lây lan kháng thuốc trừ sâu, phát triển các màn loại mới này là một ưu tiên, một số sản phẩm đầy hứa hẹn cho cả IRS và màn ngủ đang trong quá trình nghiên cứu.Phát hiện kháng thuốc trừ sâu nên là một thành phần thiết yếu của tất cả các nỗ lực phòng chống sốt rét quốc gia để đảm bảo các phương pháp phòng chống vector hiệu quả nhất đang được sử dụng, sự lựa chọn thuốc trừ sâu cho IRS nên luôn luôn được thông tin bởi các dữ liệu gần đây của địa phương về tính nhạy cảm của các vectơ mục tiêu (target vectors). Để đảm bảo đáp ứng toàn cầu kịp thời và phối hợp tới các mối đe dọa về kháng hóa chất diệt, WHO đã làm việc với một loạt các bên liên quan để xây dựng "Kế hoạch toàn cầu cho việc xử lý kháng hóa chất diệt với các vectơ sốt rét" (Global Plan for Insecticide Resistance Management_GPIRM) được công bố vào tháng 5/2012.
Chẩn đoán và điều trị (Diagnosis and treatment)
Chẩn đoán sớm và điều trị sốt rét kịp thời làm giảm tỷ lệ bệnh và hạn chế tử vong, đồng thời góp phần làm giảm lây truyền bệnh sốt rét. Liệu pháp tốt nhất và sẵn có, đặc biệt là với chủng ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum là liệu pháp kết hợp điều trị dựa vào gốc artemisinin (artemisinin-based combination therapy_ACT). WHO khuyến cáo tất cả các trường hợp nghi ngờ mắc bệnh sốt rét (suspected malaria) cần được xác nhận bằng cách sử dụng các xét nghiệm chẩn đoán dựa trên ký sinh trùng (parasite-based diagnostic testing) hoặc kính hiển vi (microscopy) hoặc test chẩn đoán nhanh (rapid diagnostic test_RDTs) trước khi điều trị, kết quả xác nhận ký sinh trùng có thể có sẵn trong vòng 30 phút hoặc ngắn hơn. Điều trị dựa trên các triệu chứng chỉ nên áp dụng trong các trường hợp không thể chẩn đoán ký sinh trùng, khuyến nghị chi tiết hơn đã được công bố trong "Hướng dẫn điều trị sốt rét, ấn bản thứ ba) (Guidelines for the treatment of malaria, second third) vào tháng 4/2015.
Hóa dự phòng sốt rét (Chemoprevention)
Thuốc chống sốt rét cũng có thể được sử dụng để dự phòng bệnh sốt rét, đối với du khách bệnh sốt rét có thể được phòng ngừa thông qua điều trị dự phòng giúp ngăn chặn giai đoạn trong máu khi nhiễm trùng sốt rét. Ngoài ra, WHO khuyến cáo điều trị dự phòng cách quãng với sulfadoxine-pyrimethamine (SP) cho phụ nữ mang thai sống ở các khu vực có sự lan truyền cao, tại mỗi lần khám thai theo lịch trình sau ba tháng đầu tiên. Tương tự như vậy, đối với trẻ sơ sinh sống tại các khu vực lan truyền cao của Châu Phi, 3 liều điều trị dự phòng cách quãng với SP được khuyến nghị cho cùng với tiêm chủng định kỳ. Năm 2012, WHO khuyến cáo hóa dự phòng sốt rét theo mùa (Seasonal Malaria Chemoprevention) như một chiến lược phòng chống sốt rét bổ sung (additional malaria prevention strategy) cho khu vực Sahel của châu Phi, Chiến lược này liên quan đến việc sử dụng các liệu trình hàng tháng của amodiaquine cộng với SP cho tất cả trẻ em dưới 5 tuổi trong mùa lan truyền cao.
|
| Ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc-một trong những trở ngại chính cho Chiến lược loại trừ sốt rét |
Kháng thuốc sốt rét (Antimalarial drug resistance)
Kháng thuốc chống sốt rét là một vấn đề tái diễn mà theo đó sự đề kháng của P. falciparum với các loại thuốc sốt rét thế hệ trước như chloroquine và sulfadoxine-pyrimethamine (SP) đã trở nên phổ biến trong những năm 1970s và 1980s, phá hoại các nỗ lực phòng chống bệnh sốt rét và làm đảo chiều thành tựu về sự sống còn của trẻ em.WHO khuyến cáo giám sát thường xuyên tình trạng kháng thuốc sốt rét và hỗ trợ các quốc gia tăng cường nỗ lực trong lĩnh vực nghiên cứu quan trọng này. Một loại thuốc phối hợp ACT chứa cả thuốc artemisinin và một loại thuốc kết hợp (partner drug), trong những năm gần đây ký sinh trùng sốt rét kháng với artemisinin đã được phát hiện tại 5 quốc gia trong khu vực Tiểu vùng sông Mekong (Greater Mekong Subregion_GMS) là Campuchia, Lào P.D.R., Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Các nghiên cứu xác định kháng artemisinin đã xuất hiện một cách độc lập trong nhiều khu vực của tiểu vùng này, hầu hết bệnh nhân được điều trị khỏi bằng một ACT nếu không có sự đề kháng với thuốc kết hợp.Tuy nhiên nhiều vùng ở Campuchia và Thái Lan, P. falciparum kháng với cả artemisinin và các thuốc kết hợp còn gọi là tình trạng đa kháng thuốc (multi-drug resistance) đã phát triển.Từ những lo ngại P. falciparum ngày càng trở nên khó điều trị và tình trạng đa kháng thuốc ở Campuchia và Thái Lan có thể lan sang các khu vực khác với những hậu quả sức khỏe công cộng nghiêm trọng nên Ủy ban tư vấn chính sách sốt rét (Malaria Policy Advisory Committee_MPAC) của WHO trong tháng 9/2014 đã thông qua khuyến nghị với mục tiêu loại trừ bệnh sốt rét P. falciparum vào năm 2030. WHO đưa ra chiến lược loại trừ bệnh sốt rét ở khu vực tiểu vùng sông Mekong (2015-2030) tại kỳ họp của Đại hội đồng Y tế thế giới (WHA) vào tháng 5/2015 và đã nhận được sự chấp thuận của tất cả các nước trong tiểu vùng.
|
| Các vùng xác định P.falciparum kháng Artemisinine ở GMS và châu Phi |
Giám sát (Surveillance)
Giám sát đòi hỏi phải theo dõi đáp ứng của bệnh, đáp ứng của chương trình và hành động dựa trên các dữ liệu thu thập được. Hiện nay nhiều nước có gánh nặng sốt rét cao, hệ thống giám sát còn yếu kém và không đáp ứng yêu cầu đánh giá xu thế và phân bố bệnh tật (disease distribution and trends), khó khăn trong việc tối ưu hóa các đáp ứng và đối phó với dịch bệnh (optimize responses and respond to outbreaks). Giám sát có hiệu quả (effective surveillance) là cần thiết ở tất cả các thời điểm trên đường hướng tới loại trừ bệnh sốt rét, giám sát sốt rét mạnh mẽ (strong malaria surveillance) cho phép các chương trình tối ưu hóa hoạt động của mình bằng cách trao quyền cho các chương trình như ủng hộ sự đầu tư từ các nguồn trong nước và quốc tế tương xứng với gánh nặng sốt rét ở một quốc gia hay khu vực địa phương (advocate for investment from domestic and international sources, commensurate with the malaria disease burden in a country or subnational area); phân bổ các nguồn lực đến các quần thể dân cư cần nhất và có các can thiệp có hiệu quả nhất để đạt được các tác động sức khỏe cộng đồng lớn nhất có thể (allocate resources to populations most in need and to interventions that are most effective, in order to achieve the greatest possible public health impact); đánh giá thường xuyên mặc dù kế hoạch đang tiến triển như mong đợi hay điều chỉnh quy mô hoặc kết hợp các biện pháp can thiệp được yêu cầu (assess regularly whether plans are progressing as expected or whether adjustments in the scale or combination of interventions are required); mô tả về tác động của các nguồn tài trợ nhận được và cho phép công chúng, đại diện các nhà tài trợ và các đại diện dân cử của họ để xác định xem liệu chúng có đạt được với giá trị đồng tiền hay không (account for the impact of funding received and enable the public, their elected representatives and donors to determine if they are obtaining value for money); đánh giá xem các mục tiêu chương trình đã được đáp ứng và tìm hiểu những gì phải làm để chương trình có hiệu lực và hiệu quả có thể được thiết kế (evaluate whether programme objectives have been met and learn what works so that more efficient and effective programmes can be designed). Hệ thống giám sátsốt rét mạnh đang rất cần kích hoạt một đáp ứng sốt rét kịp thời và hiệu quả ở các vùng lưu hành nhằm ngăn chặn dịch và sự tái diễn để theo dõi sự tiến bộ, làm cho chính quyền và cộng đồng sốt rét toàn cầu có trách nhiệm với chương trình.
Loại trừ sốt rét (Elimination)
Định nghĩa loại trừ sốt rét là sự phá vỡ lan truyền sốt rét do muỗi truyền tại chỗ trong một khu vực địa lý được xác định, nghĩa là không có tỷ lệ mắc mới tại địa phương;tiêu diệt sốt rét (malaria eradication) là làm giảm vĩnh viễn tới không tỷ lệ nhiễm sốt rét được gây ra bởi một tác nhân đặc biệt,nghĩa là áp dụng cho một loài ký sinh trùng sốt rét đặc biệt. Trên cơ sở các ca bệnh sốt rét được báo cáo trong năm 2013, có 55 quốc gia đang giảm tỷ lệ mắc sốt rét đến 75%, phù hợp với mục tiêu của WHA vào năm 2015. Sử dụng các chiến lược quy mô lớn theo khuyến cáo của WHO và các công cụ sẵn có hiện nay, các quốc gia cam kết mạnh mẽ cùng sự nỗ lực phối hợp của các đối tác sẽ cho phép nhiều nước, đặc biệt là những nước có sự lan truyền sốt rét thấp và không ổn định làm giảm gánh nặng và tiến tới việc loại trừ sốt rét. Những năm gần đây, 4 quốc gia đã được Tổng giám đốc WHO xác nhận loại trừ được sốt rét là United Arab Emirates (2007), Ma-rốc (2010), Turkmenistan (2010) và Armenia (2011). Trong năm 2014, 13 quốc gia báo cáo không có trường hợp mắc sốt rét trong biên giới của mình và 6 quốc gia khác báo cáo có ít hơn 10 ca mắc sốt rét.
|
| Các nghiên cứu vaccine sốt rét mới đạt ở mức “triển vọng” |
Vaccine chống lại bệnh sốt rét (Vaccines against malaria)
Hiện nay chưa có vaccine chống lại bệnh sốt rét được cấp phép hoặc bất kỳ loại ký sinh trùng nào khác ở người, một vaccine nghiên cứu chống lại P. falciparum được gọi là RTS, S/AS01 là có triển vọng nhất. Vaccine này đã được đánh giá trong một thử nghiệm lâm sàng lớn tại 7 quốc gia ở châu Phi và đã thu được đánh giá tích cực của Cơ quan y tế châu Âu (European Medicines Agency) vào tháng 7/2015. Khuyến cáo của WHO là có hay không có vaccine này nên được thêm vào các công cụ phòng chống bệnh sốt rét hiện có được dự kiến trong tháng10/2015.
Chiến lược kỹ thuật toàn cầu sốt rét giai đoạn 2016-2030
"Chiến lược kỹ thuật toàn cầu sốt rét giai đoạn 2016-2030" (Global technical strategy for malaria 2016-2030) được WHA thông qua vào tháng 5/2015 nhằm cung cấp một khung kỹ thuật cho tất cả các nước lưu hành sốt rét hướng dẫn và hỗ trợ các chương trình khu vực và quốc gia cùng hướng tới việc phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét. Chiến lược đặt ra những mục tiêu toàn cầu đầy tham vọng nhưng có khả năng đạt được bao gồm giảm 90% tỷ lệ mắc mới sốt rét vào năm 2030 (90% reduction in malaria case incidence by 2030); giảm 90% tỷ lệ tử vong sốt rét vào năm 2030 (90% reduction in malaria mortality rates by 2030); loại trừ sốt rét ít nhất ở 35 quốc gia vào năm 2030 (eliminating malaria in at least 35 countries by 2030); ngăn chặn sự phục hồi sốt rét ở tất cả các quốc gia không còn sốt rét (preventing a resurgence of malaria in all countries that are malaria-free). Chiến lược này là kết quả của một quá trình tham vấn rộng rãi và kéo dài 2 năm liên quan đến sự tham gia của hơn 400 chuyên gia kỹ thuật từ 70 quốc gia thành viên dựa trên 3 lĩnh vực chính (key pillars) bao gồm đảm bảo tiếp cận phổ cập dự phòng, chẩn đoán và điều trị sốt rét (ensuring universal access to malaria prevention, diagnosis and treatment); đẩy mạnh các nỗ lực hướng tớiloại trừ và không còn sốt rét (accelerating efforts towards elimination and attainment of malaria-free status) và chuyển đổi giám sát sốt rét thành một can thiệp cốt lõi (transforming malaria surveillance into a core intervention).
Chương trình sốt rét toàn cầu (Global Malaria Programme_GMP) phối hợp với các nỗ lực toàn cầu của WHO để phòng chống và loại trừ sốt rét bằng cách thiết lập, truyền thông và thúc đẩy việc thông qua các chỉ tiêu dựa vào bằng chứng các tiêu chuẩn, chính sách, chiến lược kỹ thuật và hướng dẫn (setting, communicating and promoting the adoption of evidence-based norms, standards, policies, technical strategies, and guidelines); giữ điểm số độc lập về sự tiến bộ toàn cầu (keeping independent score of global progress); phát triển các cách tiếp cận nhằm xây dựng năng lực, tăng cường hệ thống và giám sát (developing approaches for capacity building, systems strengthening, and surveillance); xác định các mối đe dọa tới phòng chống và loại trừ sốt rét cũng như các khu vực hành động mới (identifying threats to malaria control and elimination as well as new areas for action). GMP được hỗ trợ và tư vấn bởi MPAC, một nhóm gồm 15 chuyên gia sốt rét toàn cầu được chỉ định theo sau một quá trình đề cử mở. MPAC họp hai lần mỗi năm, cung cấp tư vấn độc lập tới WHO nhằm phát triển các khuyến nghị chính sách cho việc phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét. Nhiệm vụ của MPAC là cung cấp tư vấn chiến lược và đầu vào kỹ thuật và mở rộng đến tất cả các khía cạnh phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét như một phần của quá trình thiết lập các chính sách minh bạch, đáp ứng và đáng tin cậy.
Tại Việt Nam, Chiến lược phòng chống và loại trừ sốt rét đã được triển khai thực hiện từ năm 2012 theo mục tiêu hướng tới loại trừ sốt rét vào năm 2030 của WHO và Chiến lược loại trừ sốt rét Tiểu vùng sông Mê Kong cũng hoàn toàn phù hợp với“Chiến lược kỹ thuật toàn cầu sốt rét giai đoạn 2016-2030” của WHO. Tuy nhiên để hoàn thành mục tiêu chiến lược này cũng như nhiều quốc gia trên thế giới và khu vực, Việt Nam cần phải giải quyết có hiệu quả các vấn đề khó khăn kỹ thuật như muỗi sốt rét kháng hóa chất diệt, ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc và quản lý có hiệu quả nguồn bệnh ngoại lai từ các đối tượng dân di biến động khó kiểm soát.