Nhâm là xã vùng cao biên giới huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế giáp ranh với nước CHDCND Lào; tại đây có thời điểm tình hình sốt rét giảm chậm, việc điều trị bệnh bằng thuốc sốt rét ít đáp ứng. Một nghiên cứu được tiến hành ở thực địa với nghi ngờ có khả năng ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc đang sử dụng. Từ kết quả thu thập đã thay đổi chiến lược thuốc điều trị, khắc phục sốt rét giảm chậm, cải thiện được tình hình tốt hơn vào thời gian sau đó.
|
| Xét nghiệm máu sàng lọc để chọn bệnh nhân nghiên cứu (ảnh minh họa) |
Đoàn nghiên cứu sốt rét kháng thuốc có sự giúp đỡ, hỗ trợ của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn phối hợp với Trung tâm Phòng chống Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Thừa Thiên Huế sau khi ổn định tổ chức do việc tách tỉnh mới. Mặc dù trong vị trí lãnh đạo cơ quan nhưng tôi đã thu xếp công việc để cùng kỹ thuật viên của đơn vị trực tiếp tham gia, đồng hành với bác sĩ, cán bộ kỹ thuật chuyên khoa của viện trong đoàn công tác phối hợp. Mọi chuẩn bị của đoàn nghiên cứu được thực hiện một cách chu đáo, đầy đủ về mặt chuyên môn và hậu cần sinh hoạt vì xác định nếu sàng lọc tìm đủ mẫu số lượng bệnh nhân theo dõi, đánh giá sẽ phải cắm chốt tại cơ sở thời gian từ 1,5 đến 2 tháng để thực hiện quy trình theo nghiệm pháp in vivo 28 ngày của bệnh nhân nghiên cứu. Công việc lãnh đạo cơ quan tôi giao trách nhiệm lại cho cấp phó giải quyết trong thời gian vắng mặt để tham gia cùng đoàn nghiên cứu vì tình hình sốt rét giảm chậm tại huyện vùng cao biên giới A Lưới nói chung và xã Nhâm thuộc huyện nói riêng là vấn đề khá bức xúc trong vai trò tổ chức chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn kỹ thuật của mình từ những ngày trước khi chia tỉnh.
Đặt chân đến thực địa xã Nhâm sát biên giới Lào, khảo sát một vòng qua các thôn bản, Bác sĩ Nguyễn Hoàng Minh của viện (nay là Phó Giám đốc Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định) thấy cảnh quang môi trường ở đây khá thoáng mát và nói với tôi: “Ở đây làm gì có nhiều bệnh nhân sốt rét để đủ mẫu nghiên cứu hả anh?”. Tôi bày tỏ: “Minh ơi! Để ngày mai bắt đầu công việc khám và xét nghiệm máu sàng lọc cho người dân mới có thể biết được vấn đề”. Chỗ ăn ở, làm việc, sinh hoạt của đoàn chúng tôi có 6 người gồm 4 nam 2 nữ trong suốt thời gian công tác cơ sở được chính quyền, y tế địa phương bố trí tạm thời hai phòng và căn bếp nhỏ thuộc nhà công vụ bằng tranh tre nứa lá dành riêng cho giáo viên tiểu học ở xa đến công tác tại xã còn bỏ trống. Mọi người ổn định tư tưởng, đoàn kết, giúp nhau khắc phục khó khăn, vất vả để sẵn sàng cho nhiệm vụ khoa học vì sức khỏe của cộng đồng; người dân sinh sống nơi đây chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số Tà Ôi nên phải nắm rõ phong tục, tập quán, ngôn ngữ, văn hóa để hòa nhập trong công tác và sinh hoạt.
Những ngày đầu khám sàng lọc, 2 bác sĩ và 4 xét nghiệm viên giỏi, có nhiều kinh nghiệm của đoàn đã xử lý nhanh tại chỗ với số lượng hàng nghìn bệnh nhân và lam máu để chọn đủ mẫu nghiên cứu. Thử nghiệm được thực hiện theo kỹ thuật in vivo trên bệnh nhân tại thực địa với quy trình theo dõi, đánh giá trong 28 ngày vì cung cấp nhiều thông tin, tách được độ nhạy và kháng độ I nhưng phải mất nhiều thời gian; trong khi đó kỹ thuật thực hiện ngắn trong 7 ngày chỉ xác định được kháng độ II và độ III. Đoàn nghiên cứu phải tuân thủ các bước tiến hành theo quy định như chọn bệnh nhân đúng tiêu chuẩn, cho bệnh nhân uống thuốc theo phác đồ chuẩn của từng loại thuốc, theo dõi kết quả xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét với thời gian quy định, ngăn ngừa sự tái nhiễm để xác định sự tái phát một cách chính xác. Việc theo dõi, đánh giá bao gồm sự đáp ứng của ký sinh trùng sốt rét và đáp ứng trên lâm sàng. Do cơ cấu ký sinh trùng sốt rét gây bệnh tại địa phương chủ yếu là Plasmodium falciparum, loại ký sinh trùng này thường kháng thuốc nên được chọn sàng lọc để nghiên cứu. Thuốc điều trị sử dụng phổ biến vào thời điểm bấy giờ là chloroquin và fansidar nên cũng được chọn để thử nghiệm. Ngoài theo dõi những biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân trong thời gian nghiên cứu, còn phải lấy lam máu xét nghiệm để đánh giá diễn biến ký sinh trùng sốt rét vào thời điểm trước khi uống thuốc và các ngày D1, D2, D3, D7, D14, D21, D28 sau đó.
Mới hơn 1 tuần ở thực địa với cường độ lao động khá vất vả nên anh chị em trong đoàn công tác mệt mỏi nhiều vì sáng phải dậy sớm, ăn sáng xong mang theo dụng cụ, thuốc men đi ngay về thôn bản để kịp làm việc; buổi trưa nấu cơm ăn tại chỗ với gạo và thức ăn đem theo, chiều tối mới về lại nơi tạm trú . Bác sĩ Minh nói với tôi: “Em không ngờ cảnh núi rừng tuyệt đẹp và thoáng mát như thế này mà có quá nhiều bệnh nhân”. Tôi bộc bạch: “Đẹp và thoáng mát như vậy nhưng sốt rét lại giảm chậm đó, dân bản mình thật khổ”. Vừa sàng lọc, vừa thử nghiệm trên bệnh nhân gối đầu vượt quá số mẫu cần thiết và trừ hao hụt để có giá trị đánh giá nên thời gian nghiên cứu phải kéo dãn ra; vì vậy quy trình 28 ngày nhưng xác định có thể mất đến gần 2 tháng mới hoàn tất xong công việc. Nhìn các xét nghiệm viên bơ phờ, tôi hỏi: “Các anh chị có mệt lắm không?”. Chị Thiện và các em Phong, Ảnh, Liên đều mĩm nụ cười trả lời: “Không sao anh à! Dù mệt nhọc nhưng rất vui vì mẫu nghiên cứu thu thập vượt quá số quy định nên sẽ có đánh giá tốt”. Sau thời gian cắm chốt thực địa, đoàn công tác ghi nhận kết quả ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum có tỷ lệ kháng thuốc chung với chloroquin hơn 75% và với fansidar hơn 80%. Nguyên nhân sốt rét giảm chậm tại đây đã được xác định, có cơ sở khoa học thay thế phác đồ điều trị chống kháng khác phù hợp và đạt được hiệu quả, tình hình sốt rét đã giảm vào thời gian sau đó.
Hiện nay sốt rét kháng thuốc đã và đang là một vấn đề gây nên sự khó khăn trong công tác điều trị. Từ kinh nghiệm thực tiễn nêu trên, địa phương nào có tình hình sốt rét giảm chậm hoặc không giảm sau tác động biện pháp cần phải tiến hành nghiên cứu, đánh giá ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc để xử trí phác đồ điều trị chống kháng thích hợp nhằm đạt được kết quả mong muốn, góp phần bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng người dân ở vùng sốt rét lưu hành.