Theo Báo cáo của Bộ Y tế (MOH), mặc dù trong năm 2015 tình hình dịch bệnh trên thế giới và khu vực có nhiều biến động, khả năng dịch bệnh mới nổi và tái nổi xâm nhập vào nước ta rất cao. Bên cạnh đó, vấn đề kiểm soát đại dịch HIV/AIDS, an toàn vệ sinh thực phẩm và quản lý môi trường y tế còn nhiều phức tạp nhưng ngành y tế đã vượt qua khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ, được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và các nước trong khu vực đánh giá cao.
Tình hình dịch bệnh và hoạt động y tế dự phòng
Kiểm soát dịch bệnh truyền nhiễm
Trong năm 2015, ngành y tế tiếp tục chỉ đạo quyết liệt, ngăn chặn kịp thời bệnh dịch ở trong nước, không để dịch lớn xẩy ra, kiểm soát không để các dịch bệnh mới nổi như Ebola, H7N9, Mers-CoV,... xâm nhập vào Việt Nam trong điều kiện các nước trong khu vực có dịch. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các dự án thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia, tỷ lệ tiêm chủng mở rộng được duy trì trên 90%, hoàn thành chiến dịch tiêm vắc xin sởi-rubella cho trẻ từ 1-14 tuổi trên toàn quốc lớn nhất từ trước đến nay, đạt tỷ lệ 98,2%, tiếp tục bảo vệ thành quả thanh toán bại liệt, loại trừ uốn ván sơ sinh, tình hình mắc và tử vong của hầu hết các bệnh truyền nhiễm lưu hành năm 2015 đều giảm so với cùng kỳ năm 2014 và trung bình giai đoạn 2011-2014.

Cảnh giác với dịch bệnh từ gia súc, gia cầmn nhập lậu
Trong giai đoạn 2011-2015, tỷ lệ mắc và tử vong do sốt xuất huyết giảm từ 147 và 0,12/100.000 người năm 2010 xuống còn tương ứng là 84 và 0,06/100.000 vào năm 2015. Số mắc sốt xuất huyết năm 2015 cả nước giảm16,6%, tử vong giảm 36,8% so với trung bình giai đoạn 2006-2010 . Đối với bệnh tay chân miệng, tỷ lệ mắc và tử vong/100.000 dân cũng giảm từ 126 và 0,19 năm 2011 xuống còn 58 và 0,006 vào năm 2015và so với trung bình giai đoạn 2011-2014 số mắc năm 2015 giảm 31,9%, số tử vong giảm 90,0%. Từ năm 2003 đến 2010, cả nước ghi nhận 119 trường hợp mắc cúm A(H5N1) trong đó 59 trường hợp tử vong, tuy nhiên từ năm 2011 đến nay, Việt Nam chỉ ghi nhận 8 trường hợp mắc, trong đó 5 trường hợp tử vong.

TS Trần Đắc Phu-Cục trưởng Cục Y tế dự phòng phát biểu chỉ đạo Hội thảo liên ngành xây dựng
Chiến lược phòng chống bệnh không lây nhiễm
Kiểm soát các bệnh không lây nhiễm (NCDs)
Công tác dự phòng và kiểm soát các bệnh không lây nhiễm đã từng bước được triển khai có hiệu quả. Từ năm 2011-2014 thông qua các dự án thuộc Chương trình mục tiêu y tế quốc gia đã sàng lọc, phát hiện và quản lý điều trị cho khoảng 600.000 người tăng huyết áp, 236.000 người tiền đái tháo đường và đái tháo đường, khoảng 10.000 bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và hen phế quản; đã có trên 10% số xã thực hiện quản lý tăng huyết áp. Năm 2015 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống bệnh ung thư, tim mạch, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen phế quản và các bệnh không lây nhiễm khác giai đoạn 2015-2025 làm khung định hướng cho hoạt động với các giải pháp tập trung vào phối hợp liên ngành, tăng cường hệ thống y tế và chăm sóc sức khỏe ban đầu để dự phòng, phát hiện sớm, điều trị, quản lý bệnh không lây nhiễm tại cộng đồng.

Kiểm tra thị lực thường xuyên cho học sinh tiểu học là một trong những hoạt động y tế học đường
của ngành y tế trong năm 2015
Công tác y tế trường học
Công tác y tế trường học bước vào giai đoạn mới khi được Chính phủ phê duyệt đưa vào CTMTQG năm 2011 và giai đoạn 2012-2015. Năm 2012, Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký Chương trình và Kế hoạch phối hợp về bảo vệ, giáo dục và chăm sóc sức khỏe trẻ em, học sinh, sinh viên trong các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2012–2020
Tình hình HIV/AIDS và hoạt động phòng chống HIV/AIDS
Tính đến nay, có 227.154 người nhiễm HIV còn sống, 83.538 người trong giai đoạn AIDS và 86.249 người nhiễm HIV tử vong. Năm 2015, tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng được duy trì dưới 0,3% dân số, trong đó đạt cả 3 tiêu chí: giảm số nhiễm mới, số chuyển sang AIDS và số tử vong vì AIDS. Mạng lưới phòng, chống HIV/AIDS trên toàn quốc tiếp tục ổn định và được kiện toàn theo Thông tư số 02/2015/TT-BYT ngày 04/3/2015 của Bộ Y tế. Các Phòng khám ngoại trú điều trị HIV/AIDS từng bước được lồng ghép vào hệ thống y tế chung. Tăng cường phân cấp các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS về y tế cơ sở để đảm bảo tính bền vững. Thiết lập cơ chế tài chính nhằm duy trì tính bền vững của hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, hoàn thiện cơ chế mua sắm tập trung và thanh toán tập trung thuốc ARV để Quỹ BHYT bắt đầu chi trả từ năm 2017, ngân sách các địa phương cho công tác phòng, chống HIV/AIDS đã tănggần gấp 3 lần so với năm 2013 sau khi Đề án Đảm bảo tài chính được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long chỉ đạo tại Hội nghị tổng kết công tác phòng chống
HIV/AIDS năm 2015
Đánh giá chung cả giai đoạn 2011-2015, đạt mục tiêu 3 giảm: giảm số trường hợp nhiễm mới HIV từ 17.800 năm 2010 xuống 10.000 ca năm 2015, tử vong giảm từ 3.300 ca năm 2010 xuống khoảng 2.000 ca năm 2015, số bệnh nhân AIDS từ 8.900 ca năm 2010 xuống còn khoảng 6.500 ca năm 2015. Tỷ lệ người nhiễm HIV đủ tiêu chuẩn điều trị được điều trị thuốc kháng HIV (ARV) tăng từ 57,7% năm 2011 lên 67,6% năm 2015. Số người nghiện ma túy được điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế (Methadone) tăng từ 12.253 người năm 2011 lên 35.200 ngưởi năm 2015.

Năm 2015 hàng loạt vụ ngộ độc thực phẩm tại các bếp ăn tập thể luôn là nỗi lo của người lao động
Tình hình ngộ độc thực phẩm và hoạt động vệ sinh an toàn thực phẩm
Tăng cường giám sát phát hiện, quản lý ô nhiễm thực phẩm, cảnh báo nguy cơ, kiểm soát ngộ độc thực phẩm. Trong năm 2015, toàn quốc ghi nhận 171 vụ ngộ độc thực phẩm với 4.965 người mắc và 23 trường hợp tử vong; so với cùng kỳ năm 2014, số vụ giảm 22 vụ (11,4%), số mắc giảm 237 người (4,6%) và số tử vong giảm 19 người (45,2%). Ngộ độc thực phẩm tại bếp ăn gia đình đã được kiểm soát, ngộ độc thực phẩm tại các bếp ăn tập thể đang có xu hướng giảm.
Năm 2015, Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Thanh tra Chính phủ và các cơ quan liên quan xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 38/2015/QĐ-TTg về thí điểm triển khai thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm tại TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh; đã hoàn tất việc tổ chức đào tạo cấp chứng chỉ nghiệp vụ về thanh tra cho 270 công chức, viên chức của 2 thành phố nói trên, hiện đang xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả việc triển khai thí điểm.Công tác phối hợp liên ngành trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm đã được tăng cường. Về công tác kiểm nghiệm an toàn thực phẩm, đến nay đã có 42 tỉnh, thành phố có phòng kiểm nghiệm được công nhận ISO 17025, 15 địa phương đang triển khai xây dựng. Các đoàn liên ngành đã lấy 13.563 mẫu để kiểm nghiệm tại labo, kết quả cho thấy số mẫu không đạt yêu cầu về các chỉ tiêu lý hóa giảm từ 13,4% năm 2014 xuống 7,7% năm 2015; số mẫu không đạt yêu cầu về các chỉ tiêu sinh vật tăng nhẹ từ 8,9% năm 2014 lên 11,9% năm 2015. Tại địa phương, triển khai các hoạt động giám sát nguy cơ ô nhiễm thực phẩm trên địa bàn với 9.685 mẫu thực phẩm và tiến hành xử lý nghiêm vi phạm của các tổ chức cá nhân sản xuất và kinh doanh các mẫu thực phẩm không đạt tiêu chuẩn.
Trong giai đoạn 2011-2015, hệ thống pháp luật về an toàn thực phẩm được xây dựng và ban hành tương đối đồng bộ, đặc biệt lần đầu tiên lĩnh vực ATTP có Nghị định xử phạt vi phạt vi phạm hành chính riêng với mức phạt đã tăng lên rất nhiều. Hệ thống tổ chức quản lý ATTP đã được hình thành từ trung ương đến địa phương, hệ thống kiểm nghiệm ATTP đã bước đầu đáp ứng được hoạt động kiểm nghiệm với 01 Viện Kiểm nghiệm ATVSTP quốc gia, 3 trung tâm kiểm nghiệm về khu vực, 14 cơ quan kiểm tra nha nước về thực phẩm nhập khẩu và phòng kiểm nghiệm thuộc 63 TTYT dự phòng các tỉnh/thành phố. Hoạt động tuyên truyền, giáo dục về an toàn thực phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng được đẩy mạnh. Cả nước đã tiến hành thanh, kiểm tra trên 2,6 triệu lượt cơ sở thực phẩm, số cơ sở vi phạm chiếm khoảng 20%, số tiền phạt khoảng 99,6 tỷ đồng, ngoài ra còn công khai tên, địa chỉ các cơ sở vi phạm để người dân được biết.

Quản lý môi trường y tế
Tăng cường quản lý môi trường y tế, việc xử lý chất thải y tế đã có những tiến bộ, có khoảng 54,4% các bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn, tăng 12% so với năm 2010. Về xử lý chất thải rắn y tế, hiện có trên 95% bệnh viện thực hiện phân loại, thu gom chất thải rắn y tế nguy hại hằng ngày, trong đó 29,4% bệnh viện sử dụng lò đốt hai buồng hoặc công nghệ vi sóng/ nhiệt ướt khử khuẩn chất thải rắn y tế nguy hại, còn lại xử lý bằng lò đốt một buồng, thiêu đốt thủ công, tự chôn lấp hoặc thông qua hợp đồng dịch vụ xử lý. Đối với phòng, chống tai nạn thương tích, hiện có 121 xã/phường đạt tiêu chuẩn cộng đồng an toàn.Tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra, giám sát chất lượng nước dùng cho ăn uống, sinh hoạt. Tăng cường công tác quản lý sức khỏe môi trường lao động; đánh giá tác động môi trường và quản lý hóa chất, chế phẩm diệt khuẩn, diệt côn trùng dùng trong gia dụng và y tế.