Theo Báo cáo tổng kết năm 2016 của Bộ Y tế, tình hình dịch bệnh và hoạt động y tế dự phòng năm 2016 bao gồm cả phòng chống HIV/AIDS, vệ sinh an toàn thực phẩm và quản lý môi trường y tế đều nằm trong tầm kiểm soát y tế. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là trong năm 2016 nổi lên 2 dịch bệnh tác nhân do virus đều do muỗi Aedes truyền là sốt xuất huyết dengue và zika khiến cả hệ thống chính trị phải vào cuộc.
Mặc dù đạt được nhiều thành tích kiểm soát dịch bệnh trong năm 2016 nhưng Bộ Y tế (MOH) nhận định một số bệnh truyền nhiễm lưu hành như sốt xuất huyết, tay chân miệng mặc dù tỷ lệ mắc có giảm qua các năm nhưng vẫn còn ở mức cao; dịch bệnh do virus Zika mới xâm nhập nhưng đã gia tăng nhanh số ca mắc ở Tp. Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam trong cuối năm 2016 và có nguy cơ tiếp tục gia tăng trong năm 2017. Các bệnh dịch có vắc xin phòng bệnh vẫn có nguy cơ bùng phát trở lại như sởi, bạch hầu, ho gà, viêm gan B. Việc kiểm soát các yếu tố hành vi nguy cơ đến sức khỏe, dự phòng, phát hiện sớm các bệnh không lây nhiễm chưa cao. Hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV trong các nhóm đối tượng can thiệp vẫn ở mức cao trong khi tỉ lệ tiếp cận dịch vụ can thiệp còn thấp. Sự phối hợp giữa hệ thống chăm sóc sức khoẻ sinh sản, phòng chống lao và hệ thống phòng, chống HIV/AIDS tại các tuyến còn hạn chế. Tình hình ngộ độc thực phẩm còn diễn biến phức tạp, khó kiểm soát. Các vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm vẫn diễn ra phổ biến do ý thức tuân thủ các quy định của pháp luật còn hạn chế, chế tài xử phạt chưa đủ sức răn đe. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa dẫn tới nguy cơ ô nhiễm môi trường cao trong khi tổ chức hệ thống và nhân lực làm công tác quản lý môi trường y tế tại các địa phương còn thiếu về số lượng và năng lực chưa đáp ứng yêu cầu. Nhận thức và ý thức của cộng đồng, sự quan tâm đầu tư của địa phương về vệ sinh môi trường, quản lý chất thải, phòng chống bệnh nghề nghiệp và tai nạn thương tích còn hạn chế.

Xử lý môi trường y tế sau bão lụt
Tình hình dịch bệnh truyền nhiễm và hoạt động y tế dự phòng
Tình hình dịch bệnh truyền nhiễm
- Sốt xuất huyết: 106.300 ca mắc tại 56tỉnh/thành phố tăng 6,5%, trong đó có 36 tử vong giảm 14 trường hợp so với năm 2015. Tình hình dịch bệnh sốt xuất huyết trong năm 2016 bùng phát chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Tây Nguyên, một số tỉnh miền Trung và miền Nam. Sự gia tăng của dịch bệnh sốt xuất huyết đã làm nhiều bệnh viện Tây Nguyên quá tải, Chính phủ và Bộ Y tế đã phải ban hành các quyết định chỉ đạo phòng chống sốt xuất huyết trong hệ thống chính trị, đặc biệt là ý thức phòng chống của cộng đồng. Lãnh đạo Chính phủ và Lãnh đạo Bộ Y tế đã phải trực tiếp xuống kiểm tra, chỉ đạo phòng chống sốt xuất huyết tại Tây Nguyên trong thời kỳ cao điểm của dịch.
- Zika: 152 ca mắc tại 9 tỉnh/thành phố phí Nam, trong đó cao nhất làTP. Hồ Chí Minh (131 ca), Bình Dương (7 ca), Bà Rịa-Vũng Tàu (2 ca), Đắk Lắk (2 ca), Khánh Hòa (6 ca), Phú Yên (1 ca), Long An (1 ca), Tây Ninh (1 ca), Đồng Nai (1 ca). Trong tổng số 4.299 mẫu xét nghiệm vi rút Zika, ghi nhận 1 trường hợp trẻ đầu nhỏ nhiều khả năng liên quan đến vi rút Zika tại tỉnh Đắc Lắc.Theo số liệu cập nhất đến nay, sô ca mắc zika tiếp tục gia tăng chủ yếu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và xuất hiện rải rác ở một số tỉnh/thành phố miền Nam. Số ca bệnh do vi rút Zikachủ yếu vào các tháng cuối năm (từ tháng 9/2016 đến nay) do là mùa mưa cũng là mùa muỗi truyền bệnh Aedes phát triển mạnh trong khi nguồn bệnh tiềm ẩn trong cộng đồng, khó kiểm soát do biểu hiện triệu chứng nhẹ, người bệnh không để ý.

Nguy cơ dịch cúm A/H7N9 nhập khẩu theo nguồn gia cầm nhập lậu từ Trung Quốc
Nguy cơ dịch bệnh mới và tái nổi nhập khẩu (risk of importation increases)
Sự bùng phát và gia tăng dịch bệnh do virus Zika ở Việt Nam chỉ một thời gian ngắn trong vòng 3-4 tháng cuối năm 2016 cho thấy khả năng dịch bệnh truyền nhiễm mới nổi hay tái nổi (Emerging or Re-emerging Infectious Disease_EID) đã từng tồn tại nhưng có thể xuất hiện trong một quần thể dân cư mới thông qua những ca bệnh nhập khẩu (imported cases) với tỷ lệ mắc tăng nhanh hoặc lan rộng sang các vùng địa dư khác với mức độ lan truyền được dự báo sẽ còn tăng lên nhanh chóng trong thời gian tới. Bên cạnh Zika, Việt Nam còn đối mặt với nhiều nguồn bệnh có khả năng xâm nhập trong bối cảnh thế giới đang phải đương đầu với các EID khác như cúm A/H7N9, MER-CoV, Ebola, bại biệt, sốt vàng da...; nhất là trong khi một số quốc gia láng giềng đã xuất hiện những ổ chứa dịch bệnh này. Điều đáng lo hơn nữa là 3/4 số bệnh lây truyền qua trung gian truyền bệnh động vật, côn trùng, tiết túc y học (Vector born diseases) cùng với sự đột biến của các EID này làm biến đổi các tác nhân hiện tại (như cúm A/H5N1, H1N1,...), rất khó kiểm soát trong cộng đồng cũng như khó lựa chọn thuốc điều trị và hóa chất diệt côn trùng phù hợp để ứng phó với sự biến đổi này của tác nhân gây bệnh cũng như trung gian truyền bệnh.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), nguyên nhân gia tăng của các EID là do quá trình thương mại hóa toàn cầu, sự biến đổi khí hậu, môi trường cùng tình trạng gia tăng kháng thuốc, trong khi khả năng miễn dịch của con người ngày càng suy giảm làm tăng cơ hội đột biến và khuyếch tán tác nhân gây bệnh. Theo đó, sự biến đổi type của tác nhân gây bệnh có thể là yếu tố chính làm các bệnh truyền nhiễm tăng lên cùng sự lưu hành các type virus thay đổi qua các năm dẫn đến sự thay đổi về chu kỳ dịch, thay đổi nhóm đối tượng mắc bệnh và sự thay đổi miễn dịch của cộng đồng kết hợp với tình trạng kháng thuốc là thách thức lớn với ngành y tế trong kiểm soát dịch bệnh. Cùng với đó, các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường cũng có vai trò rất quan trọng, nhất là cộng đồng chưa có ý thức tự bảo vệ khi sống hay vào vùng có dịch bệnh lưu hành, chưa tích cực tham gia vệ sinh môi trường, vệ sinh phòng bệnh, vệ sinh cá nhân. Từ đó, các EID chủ yếu là các bệnh lây truyền qua vector như sốt xuất huyết, zika, sốt rét, viêm não Nhật Bản B, sốt vàng, còn cơ hội phát sinh, phát triển và lan rộng trong cộng đồng.

Các biện pháp dập dịch được thực hiện chặt chẽ tại những nơi có dịch
Hoạt động y tế dự phòng
Để đối phó với tình hình dịch bệnh trong năm 2016, Bộ Y tế đã chỉ đạo quyết liệt, tăng cường chủ động trong phòng chống dịch bệnh, ngăn chặn và khống chế kịp thời dịch bệnh.Đặc biệt là tăng cường biện pháp phun hóa chất diệt muỗi trưởng thành trong thời gian dịch bệnh bùng nổ, tổ chức thực hiện diệt lăng quăng/bọ gậy, vệ sinh môi trường thường xuyên với thông điệp "Không còn muỗi, không còn lăng quăng/bọ gậy, không còn sốt xuất huyết và Zika". Triển khai phòng chống dịch chủ động, dự báo, phát hiện sớm, khống chế kịp thời dịch bệnh, không để dịch lớn xẩy ra, giảm tỷ lệ mắc và tử vong do các bệnh truyền nhiễm. Giám sát chặt chẽ, ngăn chặn kịp thời bệnh dịch truyền nhiễm tại các cửa khẩu quốc tế, không để dịch bệnh xâm nhập.Tăng cường các hoạt động truyền thông, truyền thông nguy cơ, phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm, bệnh không lây nhiễm và truyền thông nâng cao sức khỏe tại cộng đồng nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi trong việc chủ động chăm sóc sức khỏe của người dân và cộng đồng.Kiểm soát các yếu tố nguy cơ, hạn chế sự gia tăng tỷ lệ người tiền bệnh, mắc bệnh, tàn tật và tử vong sớm tại cộng đồng do bệnh không lây nhiễm; củng cố, nâng cao năng lực hệ thống y tế dự phòng và tăng cường năng lực giám sát bệnh không lây nhiễm.Tăng cường hiệu quả hoạt động y tế trường học thông qua các giải pháp nâng cao năng lực mạng lưới, đẩy mạnh truyền thông và tăng cường công tác giám sát điều kiện vệ sinh trường học và hỗ trợ kỹ thuật các tuyến và các trường để triển khai công tác y tế trường học.Tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về tiêm chủng, xét nghiệm thuộc lĩnh vực y tế dự phòng và an toàn sinh học trong xét nghiệm, đảm bảo duy trì tỷ lệ tiêm chủng và không ngừng nâng cao chất lượng tiêm chủng.Đẩy mạnh công tác phòng chống bệnh không lây nhiễm. Xây dựng 02 dự án thực hiện Chiến lược quốc gia phòng chống bệnh không lây nhiễm. Tổ chức chiến dịch truyền thông, tổ chức Hội thảo báo chí với chủ đề dự phòng và kiểm soát bệnh đái tháo đường. Điều tra quốc gia yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm. Xây dựng bộ tài liệu tập huấn tập huấn dự phòng, quản lý bệnh không lây nhiễm tại công đồng; hoàn thiện dự thảo biểu mẫu thống kê báo cáo về bệnh không lây nhiễm. Cập nhật báo cáo kết quả thực hiện chính sách quốc gia phòng, chống tác hại lạm dụng rượu bia, xây dựng dự thảo Luật phòng, chống tác hại rượu bia.

Việt Nam quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu 90-90-90 của UNAIDS đến năm 2020
Tình hình HIV/AIDS và hoạt động phòng chống HIV/AIDS
Tình hình nhiễm HIV/AIDS
Theo Báo cáo của Bộ Y tế năm 2016, số trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống là 231.600 người, số bệnh nhân AIDS hiện tại là 87.800 người, số người nhiễm HIV tử vong là 89.500 trường hợp. Tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng tiếp tục được khống chế dưới 0,3%.

Hoạt động phòng chống HIV/AIDS
MOH đã mở rộng các cơ sở điều trị methadone từ 55 tỉnh, thành phố năm 2015 ra tất cả 63 tỉnh, thành phố năm 2016 với275 cơ sở điều trị methadone và 50,8 nghìn bệnh nhân (tăng58 cơ sở và 15,6 nghìn bệnh nhân so với cuối năm 2015). Hiện tại đã có 385 cơ sở điều trị ARV với 111,7 nghìn bệnh nhân ở tất cả 63 tỉnh, thành phố (tăng 73 cơ sở và 7,9 nghìn người so với cuối năm 2015). Trong năm 2016 cấp mới 5 phòng xét nghiệm được phép khẳng định HIV dương tính, trong đó 2 tỉnh Bắc Kạn, Đắc Nông là 2 tỉnh cuối cùng, như vậy đến nay có 63/63 tỉnh, thành phố đều có thể làm xét nghiệm khẳng định HIV dương tính. Ngoài ra, đã cấp mới 3 phòng xét nghiệm được phép khẳng định HIV tuyến huyện tại các tỉnh Thái Nguyên, Sơn La, Lào Cai, nâng lên thành 9 huyện có phòng xét nghiệm khẳng định HIV dương tính. Năm 2016 bắt đầu triển khai thí điểm mô hình tư vấn xét nghiệm tại cộng đồng, do các tuyên truyền viên đồng đẳng hoặc y tế thôn bản được tập huấn xét nghiệm HIV trực tiếp xét nghiệm HIV cho những người nguy cơ cao tại cộng đồng, thí điểm tại 4 tỉnh gồm Thanh Hóa, Thái Nguyên, Điện Biên, Nghệ An và Hồ Chí Minh, phát hiện được 450 người nhiễm HIV, đóng góp khoảng 10% số người phát hiện nhiễm mới.

Tăng cường tiếp cận và phát hiện người nhiễm mới HIV tại cộng đồng
Duy trì hoạt động của mạng lưới nhân viên tiếp cận cộng đồng và nghiên cứu triển khai hoạt động dưới nhiều mô hình hoạt động khác nhau; phân phát bơm kim tiêm, bao cao su miễn phí, đặc biệt ưu tiên các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, và mở rộng chương trình tiếp thị xã hội. Mở rộng các điểm cấp phát thuốc tại xã/phường để tăng tỷ lệ tiếp cận và giảm tỷ lệ bỏ trị; mở rộng điều trị methadone trong trại giam và các cơ sở cai nghiện. Tăng cường tính sẵn có các dịch vụ xét nghiệm sàng lọc HIV trong tất cả các cơ sở y tế; mở rộng xét nghiệm HIV dựa vào cộng đồng. Mở rộng mạng lưới phòng xét nghiệm khẳng định HIV dương tính cho các khu vực xa trung tâm thành phố của tỉnh. Mở rộng xét nghiệm đo tải lượng HIV thường quy cho bệnh nhân đang điều trị ARV thay thế dần cho việc xét nghiệm thường quy CD4. Đẩy mạnh hoạt động thông tin giáo dục truyền thông và truyền thông thay đổi hành vi thông qua các kênh truyên thông khác nhau đặc biệt qua mạng lưới nhân viên tiếp cận cộng đồng. Triển khai và củng cố chất lượng giám sát trọng điểm HIV tại 30 tỉnh/thành phố; giám sát trọng điểm STItại 10 tỉnh/thành phố. Tiến hành đánh giá nhanh tình hình dịch HIV/AIDS tại các tỉnh trọng điểm về HIV/AIDS. Thực hiện ước tính dự báo kích thước quần thể nguy cơ cao tại 63 tỉnh/thành phố làm cơ sở cho việc lập kế hoạch và triển khai các can thiệp. Kiện toàn các cơ sở điều trị HIV/AIDS nhằm đảm bảo bệnh nhân HIV/AIDS được tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh HIV thông qua bảo hiểm y tế. Tăng cường phối hợp với chương trình Lao quốc gia triển khai các hoạt động phối hợp Lao/HIV nhằm giảm tác động của lao trên người nhiễm HIV và nhiễm HIV trên bệnh nhân Lao.

Ngộ độc thực phẩm hàng loạt chủ yếu xảy ra ở các bếp ăn tập thể do vệ sinh thực phẩm không an toàn
Tình hình ngộ độc thực phẩm và hoạt động an toàn thực phẩm
Tình hình ngộ độc thực phẩm
Trong năm 2016 cả nước đã xảy ra 129 vụ ngộ độc thực phẩm lớn với 4.139 người mắc và 12 trường hợp tử vong nhưng vẫn giảm cả về số vụ (32,6%), số người mắc (20%) và số tử vong (91,7%) do ngộ độc thực phẩm so với năm 2015. Tình hình ngộ độc thực phẩm còn diễn biến phức tạp, khó kiểm soát. Các vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm vẫn diễn ra phổ biến do ý thức tuân thủ các quy định của pháp luật còn hạn chế, doanh nghiệp vì lợi nhuận nên kinh doanh, sử dụng chất cấm trong trồng trọt và chăn nuôi, chế biến thực phẩm, trong khi chế tài xử phạt chưa đủ sức răn đe.

An toàn vệ sinh thực phẩm đảm bảo sức khỏe nhân dân là một trong những mục tiêu hàng đầu của ngành y tế
Hoạt động an toàn thực phẩm
Hoạt động bảo đảm an toàn thực phẩm tiếp tục được đẩy mạnh, tình hình ngộ độc thực phẩm đang được kiểm soát; giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả các vấn đề bức xúc về an toàn thực phẩm; tăng cường giám sát, phòng ngừa và cảnh báo kịp thời các vấn đề về an toàn thực phẩm. Công tác truyền thông tiếp tục được đẩy mạnh và duy trì thường xuyên, các hình thức truyền thông được đa dạng hóa đã tác động tốt đến các đối tượng trongviệcthay đổi hành vi bảo đảm an toàn thực phẩm. Báo chí đã tích cực đưa các tin bài về công tác bảo đảm an toàn thực phẩm đến cộng đồng, đặc biệt các tin về cảnh báo nguy cơ. Công tác thanh tra, kiểm tra được triển khai đồng bộ, quyết liệt từ Trung ương đến địa phương, có sự vào cuộc của các cấp, các ngành chức năng có liên quan, được phân cấp rõ cho từng ngành, từng cấp, hạn chế sự chồng chéo trong thực hiện. Duy trì hoạt động của Ban Chỉ đạo liên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm. Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phươngxác định giải quyết sự cố ô nhiễm môi trường biển tại 4 tỉnh miền Trung về giám sát xác định an toàn hải sản biển và hải sản bảo quản đông lạnh tại các kho trên địa bàn.Giám sát và xử lý ngộ độc thực phẩm các bệnh truyền qua thực phẩm; Giám sát, phòng ngừa và cảnh báo nguy cơ thực phẩm mất an toàn; Giám sát chủ động mối nguy ô nhiễm thực phẩm và kiểm nghiệm mẫu thực phẩm trong thanh tra, hậu kiểm. Thực hiện có hiệu quả hoạt động giáo dục truyền thông phòng chống ngộ độc thực phẩm, thực hiện việc từng địa phương, từng gia đình, từng cơ sở dịch vụ ăn uống và cộng đồng cam kết và có biện pháp cụ thể, thích hợp không để xảy ra ngộ độc thực phẩm đông người. Tiếp tục chú trọng phòng chống ngộ độc thực phẩm do độc tố tự nhiên, nhất là ngộ độc do nấm độc. Nâng cao năng lực và thí điểm triển khai thanh tra chuyên ngành về ATTP tại một số địa phương. Tăng cường công tác thanh tra, hậu kiểm theo định kỳ, sự kiện, chủ đề hoặc đột xuất bảo đảm tính đồng bộ và hiệu quả. Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến kiến thức về bảo đảm ATTP cho các nhóm đối tượng. Tổ chức đào tạo, tập huấn cho cán bộ địa phương về chuyên môn nghiệp vụ quản lý và kiểm soát ATTP. Duy trì Tháng hành động vì chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh công tác phối hợp liên ngành về an toàn thực phẩm. Tiếp tục thực hiện nghiêm, có hiệu quả các nhiệm vụ được phân công theo Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 09/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường trách nhiệm trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Tổng kết việc thí điểm thực hiện thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Xử lý chất thải y tế tại các bệnh viện đang là thách thức với ngành y tế
Quản lý môi trường y tế
Tình trạng ô nhiễm môi trường y tế và đánh giá tác động sức khỏe (HIA)
Vấn đề quản lý môi trường y tế ở Việt Nam trong năm 2016 có nhiều vấn đề phức tạp ngoài tầm kiểm soát y tế trong xử lý chất thải y tế cũng như các chất xả thải môi trường từ các khu công nghiệp cùng tình trạng ô nhiễm không khí, ô nhiễm môi trường biển và nước sạch ảnh hưởng nghiêm trọng sức khỏe người dân. WHO cho biết trong vòng 50 năm qua, mức độ ô nhiễm môi trường đã tăng lên ở Việt Nam do quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và sự phát triển của phương tiện giao thông cơ giới diễn ra với tốc độ nhanh, tạo ra ô nhiễm không khí đô thị, phát sinh chất thải rắn và chất thải nguy hại cũng như một loạt các thảm họa và tình huống khẩn cấp do con người gây ra.Ô nhiễm trong khu vực đô thị chủ yếu là do các hạt rắn lơ lửng, khí sulfur dioxide (SO2), nitrogen dioxide (NO2) và carbon monoxide (CO), xăng, chì và tiếng ồn.Các nguy cơ về sức khỏe đối với tác động từ các hạt bụi làm ảnh hưởng tới quá trình hô hấp và hệ thống hô hấp, làm hỏng các mô phổi, ung thư,chết trẻ; người già, trẻ em và người có bệnh phổi mãn tính, cúm hoặc hen, là những người đặc biệt nhạy cảm đối với ảnh hưởng của các hạt rắn. Theo nhận định của WHO, quá trình công nghiệp hóa diễn ra nhanh cũng làm ô nhiễm không khí. Bụi từ các nhà máy xi-măng bao trùm thành phố Hải Phòng, thành phố lớn thứ ba, vượt quá tiêu chuẩn chất lượng không khí quốc gia từ 3 đến 8 lần.Ở Hà Nội, các chất gây ô nhiễm không khí xung quanh (ambient air pollutants)đã đạt mức báo động, nồng độ CO2 cao hơn từ 1,5 đến 1,7 lần so với mức cho phép, NO2 cao hơn từ 2,5 đến 2,9 lần, các hạt rắn có thể lắng được (settleable particulates)có hàm lượng cao hơn từ 43 đến 60 lần và các hạt rắn lơ lửng (suspended particulates)có hàm lượng cao hơn từ 5 đến 10 lần. Theo “Kế hoạch thực hiện Quy hoạch xử lý chất thải y tế giai đoạn 2011- 2015 và định hướng đến năm 2020” (Plan for implementation of Masterolan of Healthcare Waste Treatment in the period 2011-2015 and Orientation to 2020), tổng lượng chất thải rắn y tế phát sinh (hazardous healthcare solid)ở Việt Nam khoảng 47 tấn/ngày, nước thải phát sinh từ các cơ sở y tế (wastewater generated from healthcare facilities)khoảng 125,000 m3/ngày.Việc tiếp xúc với các chất gây ô nhiễm không khí vượt quá tầm kiểm soát của người dân, đòi hỏi chính quyền các cấp từ quốc gia tới khu vực và quốc tế phải hành động, WHO cho rằng mức ô nhiễm không khí càng thấp thì càng tốt cho sức khỏe đường hô hấp và tim mạch (cả trước mắt và về lâu dài) của người dân.

WHO cho rằng ô nhiễm không khí ở Việt Nam đã đạt mức báo động
Đánh giá tác động sức khỏe (Health Impact Assessment_HIA) là một công cụ đánh giá các tác động về mặt sức khỏe của các chính sách, kế hoạch và các dự án trong các ngành kinh tế khác nhau, sử dụng các kỹ thuật định lượng, định tính và có sự tham gia của người dân. HIA giúp các nhà ra quyết định lựa chọn các giải pháp thay thế và các biện pháp cải thiện để phòng ngừa bệnh tật, chấn thương thương tích và chủ động tăng cường sức khỏe.WHO hỗ trợ các công cụ và sáng kiến trong lĩnh vực HIA để cải thiện một cách năng động sức khỏe và phúc lợi trong tất cả các ngành. HIA được sử dụng để đánh giá các kế hoạch, dự án, chương trình hoặc chính sách trước khi triển khai thực hiện; dự báo các tác động sức khỏe của các đề xuất dự án, kế hoạch và chương trình; khuyến nghị các biện pháp giảm thiểu:tăng tối đa các tác động có lợi và giảm thiểu các tác động có hại cho sức khỏe; gắn kết các nhà ra quyết định sao cho họ phải cân nhắc các tác động sức khỏe và các yếu tố quyết định sức khỏe trong quá trình đưa ra quyết định.

Ở Việt Nam ô nhiễm môi trường (đất, nước, không khí) đang là một thách thức lớn
Thách thức quản lý môi trường y tế và hỗ trợ của WHO
Sau một số năm được Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE) và Bộ Y tế (MOH) phối hợp xây dựng, “Kế hoạch hành động quốc gia về sức khỏe môi trường”(National Environmental Health Action Plan_NEHAP) đã được trình Chính phủ phê duyệt, tuy nhiên bản kế hoạch này đã không được phê duyệt vào đầu năm 2012 do đó Việt Nam sẽ phải đương đầu với các vấn đề sức khỏe môi trường mà không tuân theo một kế hoạch toàn diện và mang tính chất hệ thống nào. Theo WHO, hiện nay 53,6% các cơ sở y tế đã có hệ thống xử lý nước thải. 95,6% chất thải y tế rắn được phân loại và thu gom. 69,2% bệnh viện có chất thải nguy hại được xử lý bằng lò đốt 2 buồng hoặc bằng các công nghệ thay thế không đốt hoặc thông qua hợp đồng xử lý với các dịch vụ bên ngoài.Hầu hết các lò đốt rác gây ô nhiễm không khí (khí dioxin và furan) do thiếu hệ thống làm sạch khí thải hoặc do vận hành không đúng quy trình quy phạm (nhiệt độ thấp). Nước thải y tế chưa qua xử lý trong nhiều trường hợp được thải bỏ trực tiếp ra ruộng lúa, sông ngòi, ao hồ, gây ô nhiễm và ảnh hưởng tới chuỗi thức ăn.Việt Nam thiếu số liệu về các nguồn thủy ngân trong các cơ sở y tế và nhận thức của cán bộ công nhân viên y tế và công chúng về tác hại của thủy ngân còn hạn chế; chưa cơ sở y tế nào có quy trình chuẩn để phân loại chất thải có chứa thủy ngân; chất thải thủy ngân thông thường được thu gom và đốt cùng với các chất thải y tế khác trong lò đốt rác bệnh viện hoặc các lò đốt trung tâm, hoặc được đem đi chôn lấp trong bãi chôn lấp rác đô thị.
WHO đã hỗ trợ MONRE và MOH xây dựng NEHAP trình Chính phủ phê duyệt nhưng kế hoạch hành động này đã không được phê duyệt, một phần vì khái niệm sức khỏe môi trường và NEHAP còn mới lạ đối với các nhà hoạch định chính sách và phần khác là do kế hoạch này có phần trùng lắp với các chương trình mục tiêu quốc gia như chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường.Cách tiếp cận sắp tới sẽ là giải quyết vấn đề sức khỏe môi trường một cách toàn diện, trong đó, kế hoạch trên đây cần phải được chỉnh sửa và trình phê duyệt lại trong thời gian tới.WHO đã và đang ủng hộ những nỗ lực nhằm xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng không khí trong nhà, tiến hành nghiên cứu tác động sức khỏe của ô nhiễm không khí tại các nút giao thông ở thành phố lớn cũng như nâng cao nhận thức cộng đồng về tác hại sức khỏe của ô nhiễm không khí; đồng thời hỗ trợ xây dựng quy chế quản lý chất thải y tế bao gồm kế hoạch hành động quốc gia, tiến hành đào tạo tập huấn cho cán bộ y tế; các hướng dẫn về xử lý chất thải y tế và nước thải bệnh viện đã được xây dựng và đưa vào áp dụng.Với sự hỗ trợ của WHO, nghiên cứu thay thế công nghệ lò đốt rác thải y tế bằng các công nghệ thay thế như xử lý bằng lò vi sóng đã được thử nghiệm.WHO đã và đang hỗ trợ cơ quan chức năng xây dựng quy chế về sử dụng thuốc trừ sâu và các chất khử trùng trong cơ sở y tế và ở hộ gia đình; hỗ trợ các nỗ lực nâng cao nhận thức về sử dụng thủy ngân trong các cơ sở y tế; hướng dẫn về việc sử dụng thủy ngân sẽ được xây dựng trong giai đoạn 2012- 2013 và mô hình thí điểm về bệnh viện không sử dụng thủy ngân sẽ được triển khai trong giai đoạn 2012-2013.

Lấy mẫu đo nồng độ ô nhiễm không khí tại các đô thị đông dân cư
Hoạt động quản lý môi trường của ngành y tế
Tiếp tục tăng cường kiểm tra, giám sát công tác quản lý chất thải y tế ở các cơ sở y tế; chất lượng nước dùng cho ăn uống, sinh hoạt; hóa chất, chế phẩm diệt khuẩn, diệt côn trùng dùng trong gia dụng và y tế. Tổ chức thành công chiến dịch truyền thông “Hành trình mười triệu bàn tay sạch”; Dự án “Rửa tay với xà phòng vì một Việt Nam khỏe mạnh” hưởng ứng Phong trào vệ sinh yêu nước nâng cao sức khỏe nhân dân. Chỉ đạo khảo sát, đánh giá và lấy các mẫu nước, mẫu hải sản để xét nghiệm tại 4 tỉnh miền Trung và sông Bưởi sau hiện tượng cá, hải sản chết hàng loạt. Xây dựng và thực hiện Kế hoạch ứng phó với các vấn đề sức khỏe liên quan đến hạn hán và xâm nhập mặn tại 8 tỉnh Tây nguyên và Tây Nam Bộ năm 2016-2017; khảo sát về ảnh hưởng của tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng tại 10 tỉnh trọng điểm. Xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, truyền thông, tập huấn, kiểm tra, giám sát về vệ sinh lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp. Quản lý hóa chất. Đánh giá tác động môi trường y tế của các dự án xây dựng, cải tạo, nâng cấp bệnh viện.Xây dựng bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật: Thông tư hướng dẫn hoạt động an toàn vệ sinh lao động trong ngành y tế; các Thông tư hướng dẫn thực hiện quy chuẩn vệ sinh lao động; hướng dẫn thực hiện tháng hành động quốc gia về an toàn vệ sinh lao động và xây dựng danh mục các ngành nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; Thông tư ban hành danh mục hoá chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong gia dụng và y tế hạn chế sử dụng và cấm sử dụng tại Việt Nam; quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khảo nghiệm hoá chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong gia dụng và y tế. Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án đầu tư xây dựng hệ thống xử lý chất thải cho các cơ sở y tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối việc thực hiện quản lý và xử lý chất thải y tế trong và ngoài các cơ sở y tế. Phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực chuyên ngành môi trường y tế thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế để giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật. Tổ chức, hướng dẫn thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về các lĩnh vực: bảo vệ môi trường trong các cơ sở y tế, an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn thương tích, giám sát chất lượng nước, vệ sinh môi trường cộng đồng, quản lý hoá chất, chế phẩm diệt côn trùng diệt khuẩn dùng trong gia dụng và y tế. Tăng cường công tác truyền thông - giáo dục sức khỏe, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường, môi trường cơ sở y tế.