Các tháng đầu năm 2013, khu vực miền Trung-Tây Nguyên có bệnh nhân sốt rét giảm không đáng kể và sốt rét ác tính không tăng; tuy nhiên, những dẫn liệu này chưa nói lên điều gì khi đã xuất hiện 1 ca tử vong sốt rét và tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét tăng 16,22%, chủ yếu ở các tỉnh ven biển miền Trung, cảnh báo nguy cơ gia tăng sốt rét vào thời kỳ đỉnh bệnh năm 2013.
Theo số liệu thống kê sốt rét 3 tháng đầu 1013 so với cùng kỳ năm trước của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn, khu vực miền Trung-Tây Nguyên có số bệnh nhân sốt rét (BNSR) giảm 1,11% (3.121/3.156), sốt rét ác tính (SRAT) không giảm (16/16), xuất hiện 1 ca tử vong sốt rét (TVSR) tại tỉnh Phú Yên và tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) tăng 16,22% tập trung ở các tỉnh Quảng Nam (248,48%), Ninh Thuận (53,85%), Phú yên (39,66%), Đắc Nông (32,46%), Kon Tum (29,76%), Quảng Ngãi (29,17%), Đắc Lắc (13,79%), Bình Định (6,56%).
Số tỉnh có chỉ số KSTSR giảm ≥ 10% như Thừa Thiên-Huế (-28%), Bình Thuận (-24,14%), Gia Lai (-11,32%), Quảng Trị (9,68%) lại là những tỉnh có sốt rét tăng cao vào thời kỳ đỉnh bệnh năm 2012; một số tỉnh còn lại có chỉ số giảm không đáng kể như Quảng Bình (-7,53%), Tp. Đà Nẵng (-1,35%) cho thấy ngay từ quý I/2013 nguy cơ sốt rét gia tăng ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên là rất lớn.
Qua phân tích dẫn liệu thống kê, số ca nhiễm ký sinh trùng sốt rét tập trung chủ yếu ở các đối tượng dân di biến động khó kiểm soát như đi rừng (khai thác lâm sản, tìm trầm, đào đãi vàng), làm thuê theo mùa vụ, di cư tự do, làm rẫy, ngủ rẫy dài ngày trong rừng sâu, đồng thời là các vùng sốt rét lưu hành nặng chưa có biện pháp chỉ định phòng chống sốt rét hữu hiệu. Điển hình là ca bệnh tử vong do sốt rét ác tính thể não (xét nghiệm KSRSR Ft++++) ở Phú Yên làm nghề đi tìm trầm ở khu vực rừng Hà Đan (ranh giới giữa 2 tỉnh Phú Yên và Gia Lai), không được phát hiện và điều trị kịp thời.
Kết quả các cuộc điều tra dịch tễ cho thấy, phần lớn các khu vực có dân cư sinh sống dọc theo trục lộ hoặc các vùng rừng núi đã được phát quang, khai khẩn thành những vùng cây công nghiệp (cafe, chè, cao su, điều...) hoặc trồng màu, có điện thắp sáng và dần được thị trấn hóa; hơn nữa các biện pháp phòng chống véc tơ truyền bệnh (phun tồn lưu hóa chất, tẩm màn) đều tập trung vào các khu vực dân cư này nên các cuộc giám sát véc tơ hầu như không phát hiện được muỗi truyền bệnh sốt rét và sốt rét ít có khả năng lan truyền tại những khu vực này. Như vậy, số ca phơi nhiễm sốt rét chủ yếu tập trung ở các nhóm dân di biến động khó kiểm soát nêu trên, trong khi chúng ta chưa có biện pháp phòng chống sốt rét khả thi cho những đối tượng này. Đây là vấn đề khó khăn không chỉ với khu vực miền Trung-Tây Nguyên mà cả với Chương trình quốc gia phòng chống & loại trừ sốt rét hiện nay.
Biện pháp kiểm soát sốt rét ưu tiên trong năm 2013 vẫn là tăng cường giám sát dịch tễ, giám sát ca bệnh và giám sát véc tơ truyền bệnh tại các vùng sốt rét trọng điểm và các vùng có nguy cơ cao nhằm giúp cho việc dự báo sớm tình hình sốt rét để có biện pháp can thiệp kịp thời. Đối với các đối tượng dân di biến động khó kiểm soát, giải pháp chủ yếu vẫn là cấp thuốc tự điều trị (stand-by treatment) và vận động người dân ngủ màn hoặc có biện pháp tự bảo vệ khi đi vào rừng, rẫy. Nâng cao chất lượng phát hiện, chẩn đoán và điều trị sốt rét của các tuyến y tế, đặc biệt là tuyến cơ sở (xã, thôn bản) để hạn chế các trường hợp tử vong do biến chứng muộn. Chất lượng phun tồn lưu hóa chất, tẩm màn ở các khu vực dân cư vẫn được duy trì, vì những vùng này véc tơ truyền bệnh vẫn có khả năng phục hồi nếu không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật.