Những năm qua, thực hiện có hiệu quả “chương trình phòng chống sốt rét” cùng nguồn lực đầu tư của trung ương, địa phương và các đối tác quốc tế nên tỉnh Quảng Trị đã đạt được mục tiêu 3 giảm: giảm chết sốt rét, giảm mắc sốt rét và không để dịch xảy ra. Từ 2012 đến nay, thực hiện “chiến lược phòng chống và loại trừ sốt rét” Quảng trị vẫn là một trong 3 tỉnh của cả nước có số mắc sốt rét cao cần phải áp dụng các biện pháp phòng chống sốt rét tích cực cùng loại trừ sốt rét.
Ngay sau khi vừa mới được giải phóng, với đội ngũ cán bộ tuy còn ít ỏi nhưng Trạm Sốt rét Quảng Trị đã bắt tay vào công tác điều tra sốt rét vào năm 1974 tại xã Húc, huyện Hướng Hóa. Qua khảo sát cho thấy tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét trong cộng đồng là 26,92% và muỗi Anopheles truyền bệnh quanh năm với 2 đỉnh sốt rét vào tháng 4 và cao nhất vào tháng 10. Thực hiện chiến lược thanh toán sốt rét vào thời điểm đó, Quảng Trị đã tổ chức hai chiến dịch hàng năm trước đỉnh của mùa truyền bệnh bằng phun DDT trong nhà và cho uống các loại thuốc sốt rét là Chloroquine và SR2 cho mọi người dân sống trong các vùng sốt rét lưu hành. Kết quả mang lại thật khả quan chỉ sau 4 năm, tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét trong cộng đồng giảm xuống còn 0,48%.Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan như sau khi nhập tỉnh với địa bàn rộng, mạng lưới phòng chống sốt rét gặp nhiều khó khăn từ tỉnh đến xã, xuất hiện sự chủ quan của các cấp chính quyền và ngay cả trong đội ngũ y tế cùng với những khó khăn về mặt kỹ thuật như muối kháng hóa chất DDT và trú đậu ngoài nhà, ký sinh trùng sốt rét không còn đáp ứng với các loại thuốc sốt rét được dùng phổ biến trước đây nên đến năm 1989 sau khi chia tách tỉnh, tình hình sốt rét sau nhiều năm thực hiện các biện pháp can thiệp lại trở về như trước đó với tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét trong cộng đồng ở vùng sốt rét lưu hành là 27,32%, có nhiều xã tỷ lệ này rất cao như Abung, Tà rụt, Húc nghì.
Nguyên nhân của tình hình trên là do dân số sống trong các vùng sốt rét lưu hành là dân nghèo, phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số, có đường biên giới dài khoảng 200km với nước bạn Lào nên việc giao lưu vào rừng và qua lại biên giới để thăm thân, buôn bán và khai thác lâm thổ sản rất phổ biến. Mạng lưới phòng chống sốt rét tuy đã được đào tạo và có mặt đến tận thôn bản nhưng chế độ chính sách cho đối tượng này còn thấp, trình độ chưa đáp ứng nhu cầu trong giai đoạn mới. Hai loài muỗi Anopheles truyền bệnh chính là An. dirus và An. minimus có mặt tại các nơi sốt rét lưu hành ở vùng sâu, vùng núi, vùng biên giới ít chịu tác động bằng biện pháp phun tồn lưu trong nhà, trong khi đó người dân chưa có thói quen ngủ màn thường xuyên và khi đi rừng, ngủ rẫy không mang theo màn làm cho đối tượng này dễ bị phơi nhiễm với sốt rét. Công tác xá hội hóa chưa được chú trọng, sự tham gia của các ban ngành trong công tác phòng chống sốt rét chưa được đẩy mạnh. Nguồn lực dành cho sốt rét giảm mạnh kể cả từ Trung ương và địa phương trong những năm gần đây nên một số hoạt động bị bỏ ngõ như đào tạo lại, can thiệp khi có biến động, giám sát sốt rét chưa rộng khắp và thường xuyên.

Phòng chống sốt rét ở vùng biên giới Quảng Trị vẫn là một khó khăn thách thức
Trước tình hình trên, để thực hiện chiến lược phòng chống và loại trừ sốt rét giai đoạn 2011-2020 và định hướng đến năm 2030 ban hành ngày 27 tháng 10 năm 2011 theo quyết định số 1920/QĐ-TTg của Thử tướng Chính phủ vàquyết định số 4717/QĐ-BYT ngày 11 tháng 11 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế về kế hoạch phòng chống sốt rét 2015-2020, và phấn đấu tiến tới loại trừ sốt rét vào năm 2020 theo kế hoạch của Dự án Phòng chống sốt rét quốc gia, Quảng trị cần thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp sau:
Về giải pháp quản lý: Tăng cường sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp trong tổ chức thực hiện phòng chống và loại trừ sốt rét: cần phải coi công tác phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét là một trong các nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội hàng năm của địa phương. Lồng ghép chương trình phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét vào các chương trình xóa đói, giảm nghèo, ưu tiên cho vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đảm bảo đầu tư thích hợp về kinh phí, nhân lực, vật lực và tăng cường về tổ chức bộ máy cho công tác phòng chống và loại trừ sốt rét. Củng cố hệ thống chỉ đạo, tổ chức triển khai phòng chống và loại trừ từ tỉnh đến địa phương, đặc biệt là mạng lưới y tế cơ sở xã và thôn bản.
Về giải pháp nhân lực: Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực và trang thiết bị cho các tuyến; tập trung phát triển, củng cố và duy trì mạng lưới y tế cơ sở, đặc biệt là y tế thôn bản, y tế tuyến xã ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; đảm bảo đủ về số lượng, chất lượng chuyên môn cao, thành thạo các kỹ năng phòng chống sốt rét, đào tạo và đào tạo lại cho cán bộ làm công tác phòng chống sốt rét ở tất cả các tuyến.
Về giải pháp chuyên môn: Tăng cường các biện pháp phát hiện sớm và điều trị sốt rét kịp thời, đúng phác đồ của Bộ Y tế, chú trọng việc phát triển và duy trì hoạt động các điểm kính hiển vi ở tuyến xã. Đảm bảo có đủ thuốc sốt rét có hiệu lực cao đến tận thôn bản.Tập trung xác định vùng trọng điểm và đầu tư có trọng tâm để khống chế sự lan truyền tại chỗ. Đẩy mạnh công tác giám sát dịch tể sốt rét, kịp thời thu thập thông tin để can thiệp sớm khi có biến động không cho lây lan ra cộng đồng, coi giám sát là một can thiệp chính. Quản lý tốt các ca bệnh nhập khẩu.
Về giải pháp truyền thông giáo dục sức khỏe và xã hội hóa: Đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục sức khỏe nhằm nâng cao nhận thức của người dân sống ở vùng có nguy cơ mắc bệnh sốt rét về các biện pháp phòng chống và loại trừ sốt rét. Huy động sự tham gia của các ban ngành, đoàn thể và người dân; chú trọng kết hợp quân dân y trên địa bàn vùng sâu, vùng biên giới, thực hiện tốt các chiến dịch truyền thông phấn đấu đến năm 2020 có trên 98% người dân sống trong các vùng sốt rét lưu hành biết được 4 thông điệp chính về sốt rét.
Sốt rét là một bệnh dịch nguy hiểm, là gánh nặng bệnh tật đối với sức khỏe và tính mạng con người. Bệnh sốt rét lưu hành tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế, văn hóa của người dân và cả cộng đồng. Do vậy, phòng chống và loại trừ sốt rét phải được coi là một nhiệm vụ trọng tâm và lâu dài không chỉ riêng ngành y tế mà còn là nhiệm vụ của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, cần phải tăng cường huy động cộng đồng tham gia phòng chống và loại trừ sốt rét.
Không có thành quả nào mang lại sự tốt đẹp mà không có sự đầu tư thích đáng và lâu dài. Tin rằng, với các cam kết chính trị mà chính quyền các cấp đưa ra và thực hiện, công tác phòng chống và loại trừ sốt rét sẽ thành công trong thời gian đến góp phần cùng cả nước loại trừ căn bệnh này ra khỏi cộng đồng.