Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), có hai biện pháp phòng chống sốt rét cơ bản bao gồm biện pháp diệt mầm bệnh hay tác nhân gây bệnh (điều trị bệnh nhân sốt rét) và phòng chống vector truyền bệnh (tẩm màn, phun tồn lưu hóa chất diệt muỗi Anopheles), từ đó WHO quy định độ bao phủ 2 biện pháp phòng chống sốt rét toàn cầu như sau:
Biện pháp diệt mầm bệnh/tác nhân gây bệnh (Điều trị bệnh nhân sốt rét)
Các liệu pháp thuốc liên quan đến phòng chống sốt rét
Tỷ lệ phụ nữ mang thai (PNMT) nhận được ít nhất một liều điều trị dự phòng từng đợt hay còn gọi là IPTp (Intermittent Preventive Treatment in Pregnancy) đã gia tăng trong những năm gần đây, nhưng vẫn chỉ đạt 52% trong năm 2014.
Năm 2014, Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) cập nhật chính sách IPTp khuyến cáo liều lượng nên được cấp cho mỗi lần khám và chăm sóc trước sinh cho PNMT (antenatal care_ANC) sau 3 tháng đầu tiên của thai kỳ (lịch nên theo số lần khuyến cáo thăm khám trong thai kỳ), với tối thiểu 3 liều nhận được cho mỗi lần mang thai. Sử dụng dữ liệu báo cáo từ Chương trình phòng chống sốt rét quốc gia (NMCPs) và dân số Liên hiệp quốc ước tính cho 36 quốc gia châu Phi, trong đó chính sách đã được thông qua, ước tính có 52% phụ nữ trong độ tuổi mang thai nhận ít nhất 1 liều IPTp trong năm 2014, trong khi 40% đã nhận 2 liều hoặc nhiều hơn và 17% nhận 3 liều hoặc nhiều hơn trong năm 2014. Tỷ lệ phụ nữ mang thai nhận một, hai hoặc ba liều đã gia tăng sau khuyến cáo của TCYTTG vào tháng 10.2012 rằng liệu pháp IPTp được cung cấp cho mỗi lần thăm khám thai sau ba tháng đầu tiên.

Mặc dù gần đây có sự gia tăng nhưng tỷ lệ phụ nữ nhận 1 hoặc 2 liều vẫn còn ở mức năm 2010, như vậy đã có sự suy giảm trong năm 2011 và năm 2012. Tỷ lệ phụ nữ nhận IPTp khác nhau trên khắp thế giới, có 10 quốc gia báo cáo có hơn 60% phụ nữ mang thai nhận 1 hoặc 2 liều và 8 quốc gia khác báo cáo có hơn 80% nhận 1 liều hoặc nhiều hơn.
Việc thực hiện và thông qua hóa dự phòng ở trẻ em đã được giới hạn:
Năm 2014, có 6 quốc gia trong số 15 quốc gia được TCYTTG khuyến cáo SMC (Chad, the Gambia, Guinea, Mali, Niger và Senegal) đã thông qua chính sách, trong khi hai quốc gia khác ngoài tiểu vùng Sahel gồm Congo và Togo cũng đã báo cáo chính sách đã được thông qua. Ngoài ra, có nhiều báo cáo thực hiện SMC cấp vùng đang diễn ra khắp cấp vùng trong một quốc gia. Chỉ có một quốc gia là Chad đã báo cáo thông qua chính sách IPTi trong năm 2014. Gần đây, TCYTTG đã khuyến cáo liên quan đến các biện pháp can thiệp nàyIPTi trong năm 2010 và SMC trong năm 2012. Trong những năm gần đây, các nguồn lực tài chính cho IPTi và SMC đã bắt đầu thành hiện thực, điều này có thể giúp cung cấp đầy đủ các loại thuốc cần thiết và lực lượng lao động được đào tạo đến những trẻ em và những trẻ em này sẽ được hưởng lợi từ những biện pháp can thiệp này

Thực hiện thí điểm vaccine phòng bệnh sốt rét đầu tiên được đề nghị bởi nhóm cố vấn TCYTTG:
Vaccine phòng bệnh sốt rét loại RTS,S/AS01, đã nhận ý kiến khoa học tích cực từ Cơ quan y tế châu Âu theo điều 58 của Quy định (EC) số 726/2004, chỉ ra rằng, đánh giá của các chuyên gia về chất lượng vaccine và đánh giá nguy cơ-lợi ích là những thuận lợi từ góc độ pháp lý.
Vaccine đòi hỏi cần 4 liều, 3 liều đầu tiên được tiêm trong khoảng thời gian 3 tháng (mỗi tháng tiêm một liều) và liều thứ 4 được tiêm sau 18 tháng kể từ liều thứ 3. Trong thời gian 4 năm nghiên cứu, trẻ em trong độ tuổi 5-7 tháng mà nhận vaccine, hiệu quả chống lại sốt rét lâm sàng là 39% CI 95%, 34.3-3.3%) và chống lại sốt rét nặng là 31,% (CI 95%,9.3-48.3%). Hiệu quả vaccine chống lại tất cả nguyên nhân gây nhập viện là 14,% (95% CI: 3.6-24.8%).
Mức độ bảo vệ đã được chứng minh trong thử nghiệm giai đoạn 3 có thể triển khai tiếp theo. Việc thử nghiệm cần phải đảm bảo tiêm đúng 4 liều. Do vậy, cần liên lạc với người thử nghiệm để tiêm đủ liều. Đây là thách thức trong việc triển khai khi hệ thống thống y tế thường không đảm bảo. SAGE và MPAC đã khuyến cáo những vấn đề này cần được đánh giá thêm thông qua những dự án thực hiện trên phạm vi quy mô lớn. TCYTTG đã thông qua những đề xuất này và giờ đây đang tích cực làm việc với các cơ quan tài chính và hợp tác thử nghiệm lâm sàng vaccine sốt rét (gồm PATH và GSK) để huy động các hỗ trợ tài chính cho các thí điểm và thiết kế hoàn thiện chương trình thí điểm.
Xét nghiệm chẩn đoán
Tỷ lệ ca mắc sốt rét nghi ngờ được xét nghiệm đã gia tăng đều đặn kể từ năm 2005. Kể từ năm 2010, TCYTTG đã khuyến cáo tất cả những người nghi ngờ sốt rét ở tất cả các vùng nên được xét nghiệm chẩn đoán sốt rét bằng kinh hiển vi hoặc test chẩn đoán nhanh (RDTs). Tỷ lệ các ca sốt rét nghi ngờ được xét nghiệm tìm ký sinh trùng ở những bệnh nhân đến khám ở cơ sở y tế công có thể tính toán thông qua báo cáo ca sốt rét và thông tin về xét nghiệm chẩn đoán của các NMCPs.
Xu hướng phổ biến ở các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là Ấn Độ, thực hiện một số lượng lớn xét nghiệm tìm ký sinh trùng. Ba khu vực theo phân vùng của TCYTTG là châu Mỹ, châu Âu và Đông Nam Á đã có các mức độ xét nghiệm chẩn đoán sốt rét cao và ổn định kể từ năm 2005 (ít nhất 90% ca nghi ngờ được xét nghiệm tìm ký sinh trùng sốt rét).

Trong những năm gần đây, xét nghiệm chẩn đoán sốt rét đã gia tăng đều đặng ở khu vực Tây Thái Bình Dương và khu vực Địa Trung Hải. Khu vực châu Phi mức độ xét nghiệm chẩn đoán sốt rét gia tăng lớn nhất từ 36% các ca sốt rét nghi ngờ được xét nghiệm trong năm 2005 lên 41% trong năm 2010 và 65% trong năm 2014.
Gia tăng xét nghiệm chẩn đoán sốt rét ở khu vực châu Phi chủ yếu là do do gia tăng sử dụng RDTs, chiếm 71% trong tổng số xét nghiệm ca nghi ngờ trong năm 2014. Hơn 120 triệu lam được xét nghiệm trong năm 2014, chiếm 29% số lam thực hiện trên toàn cầu trong năm 2014.
Mức độ xét nghiệm chuẩn đoán sốt rét ở trẻ em sốt đến cơ sở y tế tư nhân điều trị thấp hơn so với khu vực y tế công. Số liệu được báo cáo bởi các NMCPs cung cấp thông tin xét nghiệm chẩn đoán bệnh nhân ở tất cả các lứa tuổi đến chăm sóc ở khu vực y tế công. Điều tra hộ gia đình có thể cung cấp thông tin về xét nghiệm chẩn đoán ở trẻ em sốt trong độ tuổi dưới 5 tuổi ở tất cả các khu vực thực hiện điều trị bao gồm cả khu vực y tế tư nhân.

Khu vực y tế tư nhân được đăng ký bao gồm các bệnh viện tư, trong khi khu vực tư nhân không đăng ký bao gồm các nhà thuốc ở chợ, các quầy di động và thầy lang. Trong số 18 cuộc điều tra được thực hiện tại các quốc gia ở tiểu vùng Saharan châu Phi từ năm 2013 đến 2015, tỷ lệ trẻ em sốt rét đến cơ quan y tế tư nhân không đăng ký cao hơn so với khu vực tư nhân đăng ký. Tỷ lệ trẻ em sốt được lấy máu xét nghiệm cho thấy, xét nghiệm chẩn đoán được thực hiện ở khu vực công (trung bình: 53%; IQR: 35-57%) lớn hơn so với khu vực tư nhân đăng ký (trung bình: 36%; IQR: 20-54%) và không đăng ký (trung bình: 6%; IQR:3-9%).

Mặc dù, xét nghiệm chẩn đoán ca mắc thông qua các cuộc khảo sát hộ gia đình là không thể so sánh trực tiếp với báo cáo của các NMCPs, tỷ lệ các ca sốt rét nghi ngờ ở tất cả mọi lứa tuổi được xét nghiệm chẩn đoán được báo cáo bởicác NMCPs từ năm 2012-2014 (53-65%) trùng với IQR của tỷ lệ trẻ em sốt nhận xét nghiệm chẩn đoán ở y tế công, được đo bằng các cuộc điều tra hộ gia đình trong những năm gần đây (35-57%).
Xét nghiệm ca sốt rét nghi ngờ đã gia tăng với sự gia tăng số RDTs được cung cấp bởi các nhà sản xuất và phân bố bởi các NMCPs. Các nhà sản xuất đã báo cáo số lượng bán RDTs gia tăng từ ít hơn 50 triệu test RDTs trên toàn cầu trong năm 2008 lên 320 triệu test năm 2013 và giảm nhẹ xuống còn 314 triệu năm 2014, chủ yếu là do doanh số bán ở bên ngoài khu vực châu Phi giảm. Khoảng 62% test chẩn đoán nhanh này (RDTs) là xét nghiệm đặc hiệu với P. falciparum, và 38% là xét nghiệm phối hợp có thể phát hiện hơn 1 loài ký sinh trùng sốt rét.
Doanh số RDTs được báo cáo bởi các nhà sản xuất gần đây đại diện cho tổng số test phân phát trên toàn cầu cho cả cơ sở tư nhân và công lập; tỷ lệ phân phối bởi nhà sản xuất đến mỗi cơ sở y tế ở mỗi khu vực là không biết rõ. RDTs phân phối bởi các NMCPs đến cơ sở y tế khu vực công, và đã theo xu hướng giống như tổng doanh số bán trên toàn cầu. Chúng tăng từ ít hơn 30 triệu trong năm 2008 lên gần 175 triệu trong năm 2013, sau đó giảm xuống 163 triệu trong năm 2014.

Doanh số và phân bố RDTs sẽ tiếp tục gia tăng nếu tất cả các ca sốt rét đều được xét nghiệm. Mặt dù số lượng RDTs phân bố giảm nhẹ nhưng chất lượng RDTs đã được cải thiện và vẫn còn cao sau khi chương trình kiểm tra sản phẩm RDT được thực hiện bởi TCYTTG, FIND và CDC Hoa Kỳ.
Tổng số điều trị ACTs được phân phát ở khu vực công thấp hơn so với số lượng xét nghiệm chẩn đoán sốt rét được cung cấp ở tiểu vùng cận sa mạc Sahara, châu Phi.
Nếu đúng như chính sách xét nghiệm chẩn đoán của TCYTTG thì tổng số xét nghiệm chẩn đoán được thực hiện (RDTs và kính hiển vi) nên vượt quá số lượng điều trị sốt rét được cung cấp (bởi vì chỉ có bệnh nhân xét nghiệm dương tính mới nhận thuốc điều trị sốt rét).
Tuy nhiên, đến năm 2012, số lượng xét nghiệm được thực hiện ở tiểu vùng sa mạc Sahara châu Phi ít hơn số thuốc điều trị sốt rét được phân phát, điều này cho thấy nhiều bệnh nhân đang điều trị với thuốc sốt rét mà không thực hiện xét nghiệm chẩn đoán. Giảm tỷ lệ điều trị để tăng xét nghiệm ở khu vực công đang là một xu hướng đáng khuyến khích.

Tuy nhiên, vẫn có một khoảng để cải thiện bởi vì tỷ lệ điều trị xét nghiệm nên gần bằng với tỷ lệ lam dương tính, trong đó ít hơn 44% trên toàn bộ các nước ở tiểu vùng hay cận sa mạc Sahara, châu Phi. Những nỗ lực gia tăng tỷ lệ ca sốt rét nghi ngờ được xét nghiệm bắt đầu với việc mua sắm các loại RDTs thích hợp.
Điều trị sốt rét
Tỷ lệ trẻ em sốt rét do P. falciparum ở khu vực cận sa mạc Sahara châu Phi nhận điều trị với thuốc phối hợp ACTs ước tính đã gia tăng kể từ năm 2000, nhưng tiếp cận điều trị vẫn còn thấp. Sử dụng dữ liệu điều tra hộ gia đình để xác định trẻ em sốt gần đây mà có test RDTs dương tính và người nhận điều trị thuốc sốt rét đúng phác đồ. Thông tin số lượng điều trị ACTs được phân bố bởi các NMCPs, nó có thể ước tính tỷ lệ trẻ em sốt rét P. falciparum nhận điều trị với ACTs hoặc các loại thuốc sốt rét khác.

Ước tính này chỉ có thể ở khu vực cận vùng Sahara châu Phi nơi có đủ các cuộc điều tra hộ gia đình, nhưng nó cũng phù hợp nhất ở khu vực này nơi sốt rét trẻ em phổ biến trong tổng số ca sốt rét. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi nhiễm P. falciparum và nhận thuốc phối hợp ACTs, ước tính đã gia tăng từ nhỏ hơn 1% trong năm 2005 lên 16% trong năm 2014 (khoảng từ 12-22%).
Lý do chính một tỷ lệ lớn trẻ em sốt không được chăm sóc hoặc sử dụng khu vực y tế tư nhân (YDTN) không đăng ký, nơi họ ít có khả năng nhận điều trị ACTs. Trong số những người đến điều trị bệnh thì có một tỷ lệ đáng kể điều trị sốt rét không sử dụng thuốc ACTs. Mặt dù, chỉ số mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) 6.8 thì ít nhiều có liên quan sau khi thay đổi khuyến nghị xét nghiệm bởi TCYTTG, có thể ước tính tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi sốt và được điều trị với thuốc loại thuốc sốt rét thích hợp, gia tăng từ 0% trong năm 2000 lên 13% trong năm 2014. Tuy nhiên, điều này rất khó để giải thích; chỉ số không vượt đến 100% bởi vì không phải tất cả các trường hợp sốt là do sốt rét và tỷ lệ sốt do sốt rét ở khu vực cận sa mạc Sahara châu Phi đã giảm theo thời gian thông qua cải thiện kiểm soát véc tơ.

Tỷ lệ trẻ em điều trị với thuốc phối hợp ACTs ngày càng gia tăng. Các cuộc điều tra hộ gia đình được thực hiện trong giai đoạn từ 2004-2015 cho thấy, tỷ lệ trẻ em sốt nhận thuốc sốt rét ACTs để điều trị gia tăng. Sau thuốc ACTs (trung bình 47%, IQR: 29-77%) là SP (trung bình 5%, IQR: 1-18%), quinine (trung bình 6%, IQR: 3-9%), chloroquine (trung bình 2%, IQR: 0-10%) và AQ (trung bình 1%, IQR: 0-5%) là những thuốc được sử dụng phổ biến tiếp theo trong gia đoạn 2013-2015.
Tỷ lệ điều trị sốt rét với thuốc ACTs thấp nhất khi bệnh nhân đến cơ sở y tế không chính thức, chẳng hạn như những quầy bán thuốc ở chợ hoặc những nhà cung cấp lưu động. Gia tăng tỷ lệ ca sốt rét điều trị với ACTs có thể liên quan đến sự gia tăng số lượng điều trị ACTs được phân phối bởi các nhà sản xuất và phân phối bởi các NMCPs. Số lượng các khóa điều trị ACTs mua từ các nhà sản xuất đã gia tăng từ 11 triệu liều trong năm 2005 lên đến 337 triệu trong năm 2014.
Khu vực châu Phi chiếm 98% tất cả liều ACTs nhà sản xuất phân phối trong năm 2014, với hơn một nữa trong tổng số liều cho trẻ em. Số lần điều trị ACTs được phân phát bởi nhà sản xuất đến khu vực công trong năm trong năm 2004 (223 triệu) là thấp hơn so với số lượng phân phát trong năm 2013, tương tự như vậy, NMCPs phân phối 169 triệu liều điều trị trong năm 2014 thông qua các cơ sở công, xấp xỉ gần 20 triệu liều trong năm 2013.
Sự khác biệt giữa nhà sản xuất phân phối đến khu vực công và số lượng được phân phát thông qua các cơ sở công có thể một phần là do báo cáo không đẩy đủ. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa nhà sản xuất phân phối, các NMCPs phân phối và tỷ lệ các ca sốt rét nhận điều trị với ACTs là không khớp hoàn toàn.
Biện pháp phòng chống vector (tẩm màn ngủ, phun tồn lưu hóa chất diệt muỗi)
Màn ngủ tẩm hóa chất diệt côn trùng: lưu ý độ bao phủ màn và tỷ lệ ngủ màn!
Tỷ lệ dân số ngủ màn tẩm hóa chất diệt côn trùng (ITNs) đã gia tăng đáng kể ở các quốc gia khu vực tiểu vùng Sahara, châu Phi kể từ năm 2000. Hầu hết, các quốc gia lưu hành sốt rét đã áp dụng các chính sách thúc đẩy để toàn bộ dân số có nguy cơ tiếp cận với loại màn ITNs này. Tuy nhiên, các ITNs đã triển khai rộng nhất ở châu Phi, trong đó tỷ lệ dân số có nguy cơ mắc sốt rét cao nhất và các véc tơ sốt rét được kiểm soát dựa vào ITNs.

Dựa vào dữ liệu từ các cuộc điều tra hộ gia đình và báo cáo từ các nhà sản xuất và các chương trình phòng chống sốt rét quốc gia (National Malaria Control Programmes_NMCPs), tỷ lệ dân ngủ màn đã gia tăng rõ rệt ở tiểu vùng Sahara, châu Phi, từ dưới 2% trong năm 2000 tăng lên 46% trong năm 2014 (CI 95%: 42-50%) và 55% trong năm 2015 (95% CI: 50-58%). Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi ở tiểu vùng Sahara châu Phi ngủ màn ITNs đã gia tăng khoảng 68% (95% CI: 61-72%) trong năm 2015. Mặc dù, độ bao phù màn gia tăng đang kể từ năm 2000, nhưng vẫn còn thấp so với mục tiêu đề ra (100%). Ví dụ, trong năm 2015, có 5 quốc gia đạt tỷ lệ trung bình của dân số ngủ dưới màn ITN cao nhất là 74% và 20% trong số 5 nước ước tính thấp nhất.
Gia tăng tỷ lệ dân số ngủ màn là do sự gia tăng tiếp cận với màn ITNs ở hộ gia đình. Tỷ lệ dân số tiếp cận với màn ITNs trong hộ gia đình đã tăng lên 56% trong năm 2014 (CI 95%: 51-61%) và 67% trong năm 2015 (CI 95%: 61-71%). Đây là sự gia tăng đáng kể từ mức nhỏ hơn 2% tiếp cận với ITNs trong năm 2000, nhưng vẫn thấp hơn tiếp cận phổ cập (100%) được kêu gọi cho các mục tiêu GMAP cập nhật.
Ở tiểu vùng sa mạc Sahara, châu Phi, ước tính cho thấy tỷ lệ cao (khoảng 82%) dân số tiếp cận với loại màn ITNs, ngủ màn ITNs. Do vậy, việc khuyến khích người dân sử dụng màn ITNs phù hợp trong số những người mà đã tiếp cận với ITNs vẫn quan trọng, đảm bảo tiếp cận ITNs cho những người mà không có ITNs là hoạt động ưu tiên cao nhất để tăng dân số được bảo vệ bằng biện pháp này. Gia tăng số lượng ITNs đã được phân phát đến các quốc gia trong khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi nhưng số lượng màn đến các quốc gia này vẫn không đủ để đạt được việc tiếp cận phổ cập. Hầu hết màn được phân phát bởi các nhà sản xuất đến các quốc gia sau đó những màn này được chương trình PCSR quốc gia phân phát đến hộ gia đình.
Số màn cung cấp bởi các nhà sản xuất đưa ra trong 1 năm thường không phù hợp với số màn NMCPs phân phát đến các hộ gia đình, nguyên nhân là do sự chậm trễ giữa phân phát đến quốc gia và phân phối thông qua các chiến dịch. Khoảng 143 triệu màn có tác dụng tồn lưu lâu (LLINs) được cung cấp đến các quốc gia tiểu vùng Sahara, châu Phi trong năm 2013, hơn 189 triệu màn được phân phát trong năm 2014, và ít nhất 154 triệu màn dự kiến giao trong năm 2015.

Trong những năm gần đây, hầu hết màn được phân phát là màn tồn lưu kéo dài hay lâu (LLINs). Khoảng 189 triệu màn đã phân phối trong năm 2014, đây là năm có số màn phân phối cao nhất.
Con số này gần đến ngưỡng ước tính cần 200 triệu màn mỗi năm để đạt được tiếp cận phổ cập loại màn ITNs, nếu màn giao cho các hộ gia đình với hiệu quả tối đa (nghĩa là mỗi hộ gia đình nhận chính xác số màn cần thiết để 100% hộ gia đình được tiếp cận) và màn được duy trì tại hộ gia đình ít nhất 3 năm. Tuy nhiên, đây là tình huống tốt nhất.
Trong thực tế, dựa vào mô hình phân bố màn hiện nay ở các hộ gia đình và mất màn ước tính từ số liệu phân phát và điều tra, nhiều bằng 300 triệu màn mới sẽ cần thiết cho mỗi năm để đảm bảo tất cả những người có nguy cơ sốt rét tiệp cận được với loại màn LLINs ở các quốc gia, mà sử dụng LLINs là phương pháp kiểm soát véc tơ sốt rét chính và quan trọng nhất.
Phun hóa chất tồn lưu trong nhà (IRS)
Khu vực châu Phi theo phân vùng của TCYTTG có số lượng người lớn nhất và tỷ lệ dân số có nguy cơ được bảo vệ lớn nhất bằng IRS trong năm 2014, nhưng độ bao phủ đã giảm trong những năm gần đây. Các NMCPs thường chỉ nhắm đến dân số mục tiêu được lựa chọn để thực hiện cho IRS.
Tuy nhiên, số lượng và tỷ lệ người được bảo vệ bởi IRS trong tổng dân số có nguy cơ cho phép so sánh về mức độ mà IRS được sử dụng tại các quốc gia và khu vực. NMCPs đã báo cáo có khoảng 116 triệu người trên thế giới đã được bảo vệ bằng biện pháp IRS trong năm 2014. Trong đó, có 50 triệu người ở khu vực châu Phi và 49 triệu người ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có hơn 44 triệu người ở Ấn Độ. Tỷ lệ dân số có nguy cơ bảo vệ bằng biện pháp IRS đã giảm trên toàn cầu từ đỉnh cao là 5,7% dân số được bảo vệ trong năm 2010 xuống còn 3,4% vào năm 2014 và mức giảm này xảy ra ở tất cả các khu vực, trừ khu vực đông Địa Trung Hải.
Tỷ lệ dân số có nguy cơ bảo vệ bằng biện pháp IRS là 6% ở tất cả các quốc gia tiểu vùng Sahara châu Phi trong năm 2014 và 70% ở những quốc gia mà IRS là phương pháp chính để kiểm soát véc tơ. Sự giảm sút số người được bảo vệ bởi IRS ở châu Phi phần lớn là do sự thay đổi chỉ trong một vài quốc gia, nổi bật nhất là Ethiopia, chiếm 1/3 dân số được bảo vệ bằng biện pháp IRS ở châu Phi trong năm 2013.
Một sự chuyển đổi sang sử dụng pyrethroid để phun tồn lưu IRS.
Trong số 53 quốc gia báo cáo các nhóm hóa chất diệt côn trùng đã phun trong năm 2014, thì chỉ có 29 quốc gia đã sử dụng hóa chất pyrethroides, 14 quốc gia đã sử dụng pyrethroid và một hoặc hai nhóm hóa chất khác và chỉ có 10 quốc đã không sử dụng pyrethroid. Carbamate là nhóm hóa chất được sử dụng phổ biến nhất và được phun ở 13 quốc gia, trong đó có 6 quốc gia chỉ sử dụng một nhóm hóa chất này. Mức độ suy giảm biện pháp can thiệp phun tồn lưu IRS có thể là do phun hóa chất không phải là nhóm pyrethroid chi phí cáo hơn, cũng như do kháng pyrethroid lan rộng và sử dụng ITNs trên vi mô lớn.
Hiện nay, TCYTTG khuyến cáo cho quản lý kháng hóa chất ở những khu vực với LLINs là nên sử dụng thêm biện pháp phun tồn lưu với hóa chất không phải là nhóm pyrethroid được sử dụng luân phiên.

Châu Phi: hơn ½ dân số có nguy cơ đã tiếp cận với ITN hoặc bảo vệ bằng IRS năm 2014
Kết hợp với dữ liệu được báo cáo bởi các NMCPs, tỷ lệ dân số nguy cơ tiếp cận ITNs trong một hộ gia đình và tỷ lệ người được bảo vệ bởi IRS và hộ gia đình có thể nhận hai biện pháp can thiệp này, tỷ lệ dân số được nhận các biện pháp kiểm soát véc tơ ước tính 59% trong năm 2014.
Tỷ lệ vượt qua 80% ở 9 quốc gia. Mặt dù, tỷ lệ bảo về bằng ITNs nhìn chung cao hơn so với tỷ lệ bảo vệ bởi IRS, ở một số quốc gia IRS là biện pháp kiểm soát véc tơ chính; năm 2014 nó chiếm hơn 80% độ bao phủ kiểm soát véc tơ ở 6 nước.

Kiểm soát bọ gậy (Larval control)
Kiểm soát bọ gậy như một biện pháp can thiệp vector sốt rét được sử dụng ở ít nhất 48 quốc gia trên toàn cầu. Biện pháp kiểm soát này có liên quan đến việc thay đổi hoặc biến đổi môi trường sống của véc tơ, hóa chất diệt bọ gậy và kiểm soát sinh học (ví dụ: sử dụng cá ăn bọ gậy).
Năm 2014, có 48 quốc gia báo cáo sử dụng ít nhất một trong các phương pháp kiểm soát bọ gậy này, nhiều hơn 10 quốc gia so với trong năm trước. Có 32 quốc gia đã báo cáo sử dụng các biện pháp làm thay đổi môi trường sống của véc tơ và 45 quốc gia báo cáo sử dụng biện pháp kiểm soát sinh học và hóa chất diệt bọ gậy. Quy mô của các hoạt động kiểm soát bọ gậy không được báo cáo và rất khó đánh giá chính xác tác động của các biện pháp can thiệp này
Ảnh hưởng từ các biện pháp phòng chống và điều trị sốt rét đối lên tỷ lệ nhiễm KST và tỷ lệ ca bệnh ở khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi
Mô hình này được sử dụng để ước tính số ca sốt rét ở nhiều quốc gia khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi có thể được sử dụng để kiểm tra ảnh hưởng của các biện pháp can thiệp sốt rét đối với những thay đổi tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) và tỷ lệ mắc sốt rét hay bệnh nhân sốt rét.
Mô hình dựa vào các cuộc điều tra tỷ lệ nhiễm KSTSR giai đoạn năm 2000-2015 và trên các nghiên cứu thuần tập cung cấp các ước tính về mối quan hệ giữa tỷ lệ KSTSR và tỷ lệ mắc sốt rét. Nó cũng kết hợp sử dụng màn tẩm hóa chất loại ITNs, phun tồn lưu trong nhà (IRS), tiếp cận với các thuốc ACTs ở mỗi nước.

Trong quá trình xây dựng mô hình, tác động của từng biện pháp can thiệp vào giảm tỷ lệ KSTSR. Bằng cách sử dụng quan sát hiệu quả của mỗi biện pháp can thiệp, ước lượng tỷ lệ ký sinh trùng theo các kịch bản giả định mà không can thiệp là có thể. Kịch bản không có sự can thiệp này sau đó được sử dụng để ước tính tổng hiệu quả của các can thiệp đối với cả hai tỷ lệ KSTSR và tỷ lệ mắc mới.

Dựa vào mô hình tỷ lệ ký sinh trùng và tỷ lệ ca bệnh, nó được ước tính các biện pháp can thiệp đóng góp đếngiảm 76% ký sinh trùng ở khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi trong giai đoạn 2000-2015 và giảm 70% số ca mắc sốt rét. Tỷ lệ KSTSR ở trẻ em trong độ tuổi từ 2-10 tuổi ước tính đã giảm từ 33% trong năm 2000 (khoảng: 31-35%) xuống còn 16% trong năm2015 (khoảng: 14-19%) (xem hình 3.18).

Ước tính các biện pháp can thiệp kiểm soát sốt rét chiếm 76% sự suy giảm này, mặc dù độ bao phủ các biện pháp can thiệp vẫn còn dưới mức mục tiêu quốc tế về bao phủ toàn bộ. Màn ITNs ảnh hưởng lớn nhất chiếm 50% (UI: 46-53%) sự suy giảm PfPR kể từ năm 2000.
Nhìn chung, ITNs là biện pháp can thiệp có mặt lâu hơn và được thực hiện ở mức bao phủ cao hơn so với các biện pháp can thiệp khác. ACTs và IRS cũng đã đóng góp quan trọng trong việc giảm tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét và lần lượt đóng góp giảm 14% (11-18%) và 10% (8-12%). Trong khi vai trò chính của thuốc ACTs là ngăn chặn bệnh nặng và tử vong, điều trị kịp thời cũng có thể giảm tỷ lệ ca sốt rét biến chứng. Những đóng góp theo tỷ lệ này không cần thiết phản ảnh sự so sánh hiệu quả của các biện pháp can thiệp khác nhau. Nói đúng hơn, là chủ yếu chỉ ra làm thế nào các biện pháp can thiệp khác nhau sớm triển khai và quy mô triển khai.
Trong tổng số, nó được ước tính rằng các biện pháp can thiệp PCSR ở khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi ngăn chặn 663 triệu ca sốt rét (khoảng: 542-753,000,000) trong giai đoạn 2001-2015, đại diện cho 70% trong số hơn 943 triệu ca sốt rét có thể đã xảy ra có tỷ lệ mắc vẫn không thay đổi kể từ năm 2000 (xem hình 3.19). Người ta ước tính 69% (khoảng: 63-73%), 21% (17-29%) và 10% (6-14%) trong số 663 triệu ít hơn các trường hợp can thiệp lần lượt do ITNs, ACTs và IRS.