Một số thông tin quan trọng về sốt rét từ Tổ chức Y tế thế giới (WHO, 2016)
-Hiện có khoảng 3,2 tỷ người có nguy cơ mắc sốt rét, trong đó trẻ em, phụ nữ mang thai, người không có miễn dịch đến vùng sốt rét lưu hành là những đối tượng dễ mắc bệnh nhất;
-Sốt rét là bệnh có thể phòng chống và điều trị được và đang nỗ lực để làm giảm đáng kể gánh nặng sốt rét ở nhiều nơi trên thế giới;
-Từ năm 2000 đến năm 2015, tỷ lệ mắc sốt rét trong các cộng đồng có nguy cơ giảm 37% trên phạm vi toàn cầu. Trong cùng thời gian này, tỷ lệ tử vong sốt rét trong các nhóm dân số có nguy cơ giảm 60% trên toàn cầu ở tất cả các nhóm tuổi và 65% trong số tử vong thuộc về trẻ em dưới 5 tuổi;
-Tiểu vùng sa mạc Sahara châu Phi là nơi có gánh nặng bệnh sốt rét lớn nhất trên thế giới. Năm 2015, khu vực này chiếm đến 88% các trường hợp mắc bệnh sốt rét và 90% ca tử vong sốt rét.
Độ bao phủ các biện pháp phòng chống vector trong PCSR
Trong hơn 15 năm qua, các quốc gia trên thế giới đã đạt thành công lớn trong phòng chống sốt rét (PCSR) là do chúng ta đã kiểm soát muỗi truyền bệnh sốt rét. Hiện nay,trong chương trình PCSR trên toàn cầu có hai biện pháp kiểm soát véc tơ hiệu quả nhất đó là: (i) Sử dụng hóa chất diệt côn trùng để tẩm màn hoặc cấp màn tồn lưu kéo dài và (ii) Phun tồn lưu trong nhà. Nhờ hai biện pháp này cùng với các hoạt động và can thiệp khác mà chúng ta đã góp phần vào việc cứu sống hàng triệu người mỗi năm trên thế giới.

Màn ngủ tẩm hóa chất diệt côn trùng
Tỷ lệ dân số ngủ màn tẩm hóa chất diệt côn trùng (ITNs) đã gia tăng đáng kể ở các quốc gia khu vực tiểu vùng Sahara, châu Phi kể từ năm 2000. Hầu hết, các quốc gia lưu hành sốt rét đã áp dụng các chính sách thúc đẩy để toàn bộ dân số có nguy cơ tiếp cận với loại màn ITN này. Tuy nhiên, ITNs đã triển khai rộng nhất ở châu Phi, trong đó tỷ lệ dân số có nguy cơ mắc sốt rét cao nhất và các véc tơ sốt rét được kiểm soát dựa vào ITNs.
Dựa vào dữ liệu từ các cuộc điều tra hộ gia đình và báo cáo từ các nhà sản xuất và các chương trình phòng chống sốt rét quốc gia (National Malaria Control Programmes_NMCPs), tỷ lệ dân số ngủ màn đã gia tăng rõ rệt ở tiểu vùng Sahara, châu Phi, từ dưới 2% trong năm 2000 tăng lên 46% trong năm 2014 (CI 95%: 42-50%) và 55% trong năm 2015 (95% CI: 50-58%). Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi ở tiểu vùng Sahara châu Phi ngủ màn ITNs đã gia tăng khoảng 68% (95% CI: 61-72%) trong năm 2015. Mặc dù, độ bao phù màn gia tăng đang kể từ năm 2000, nhưng vẫn còn thấp so với mục tiêu đề ra (100%). Ví dụ, trong năm 2015, có 5 quốc gia đạt tỷ lệ trung bình của dân số ngủ dưới màn ITN cao nhất là 74% và 20% trong số 5 nước ước tính thấp nhất.

Gia tăng tỷ lệ dân số ngủ màn là do sự gia tăng tiếp cận với màn ITN ở hộ gia đình. Tỷ lệ dân số tiếp cận với ITNs trong hộ gia đình đã tăng lên 56% trong năm 2014 (CI 95%: 51-61%) và 67% trong năm 2015 (CI 95%: 61-71%). Đây là sự gia tăng đáng kể từ mức nhỏ hơn 2% tiếp cận với ITNs trong năm 2000, nhưng vẫn thấp hơn tiếp cận phổ cập (100%) được kêu gọi cho các mục tiêu GMAP cập nhật. Ở tiểu vùng sa mạc Sahara, châu Phi, ước tính cho thấy tỷ lệ cao (khoảng82%) dân số tiếp cận với ITNs ngủ màn ITNs. Do vậy, việc khuyến khích người dân sử dụng màn ITNs phù hợp trong số những người mà đã tiếp cận với ITNs vẫn quan trọng, đảm bảo tiếp cận ITNs cho những người mà không có ITNs là hoạt động ưu tiên cao nhất để tăng dân số được bảo vệ bằng biện pháp này.
Gia tăng số lượng ITNs đã được phân phát đến các quốc gia tiểu vùng Saharan châu Phi, nhưng số lượng màn đến các quốc gia này vẫn không đủ để đạt được việc tiếp cận phổ cập. Hầu hết màn được phân phát bởi các nhà sản xuất đến các quốc gia sau đó những màn này được chương trình PCSR quốc gia phân phát đến hộ gia đình.
Số màn cung cấp bởi các nhà sản xuất đưa ra trong 1 năm thường không phù hợp với số màn NMCPs phân phát đến các hộ gia đình, nguyên nhân là do sự chậm trễ giữa phân phát đến quốc gia và phân phối thông qua các chiến dịch. Khoảng 143 triệu màn có tác dụng tồn lưu lâu (LLINs) được cung cấp đến các quốc gia tiểu vùng Sahara, châu Phi trong năm 2013, hơn 189 triệu màn được phân phát trong năm 2014, và ít nhất 154 triệu màn dự kiến giao trong năm 2015. Trong những năm gần đây, hầu hết màn được phân phát là màn tồn lưu kéo dài hay lâu (LLINs). Khoảng 189 triệu màn đã phân phối trong năm 2014, đây là năm có số màn phân phối cao nhất.

Con số này gần đến ngưỡng ước tính cần 200 triệu màn mỗi năm để đạt được tiếp cận phổ cập ITNs, nếu màn giao cho các hộ gia đình với hiệu quả tối đa (nghĩa là mỗi hộ gia đình nhận chính xác số màn cần thiết để 100% hộ gia đình được tiếp cận) và màn được duy trì tại hộ gia đình ít nhất 3 năm. Tuy nhiên, đây là tình huống tốt nhất.
Trong thực tế, dựa vào mô hình phân bố màn hiện nay ở các hộ gia đình và mất màn ước tính từ số liệu phân phát và điều tra, nhiều bằng 300 triệu màn mới sẽ cần thiết cho mỗi năm để đảm bảo tất cả những người có nguy cơ sốt rét tiệp cận được với màn LLINs ở các quốc gia, mà sử dụng LLINs là phương pháp kiểm soát véc tơ sốt rét chính.

Phun tồn lưu trong nhà (IRS)
Khu vực châu Phi theo phần vùng của TCYTTG có số lượng người lớn nhất và tỷ lệ dân số có nguy cơ được bảo vệ lớn nhất bằng IRS trong năm 2014, nhưng độ bao phủ đã giảm trong những năm gần đây. Các NMCPs thường chỉ nhắm đến dân số mục tiêu được lựa chọn cho IRS.
Tuy nhiên, số lượng và tỷ lệ người được bảo vệ bởi IRS trong tổng dân số có nguy cơ cho phép so sánh về mức độ mà IRS được sử dụng tại các quốc gia và khu vực. NMCPs đã báo cáo có khoảng 116 triệu người trên thế giới đã được bảo vệ bằng biện pháp IRS trong năm 2014. Trong đó, có 50 triệu người ở khu vực châu Phi và 49 triệu người ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có hơn 44 triệu người ở Ấn Độ. Tỷ lệ dân số có nguy cơ bảo vệ bằng biện pháp IRS đã giảm trên toàn cầu từ đỉnh cao là 5,7% dân số được bảo vệ trong năm 2010 xuống còn 3,4% vào năm 2014 và mức giảm này xảy ra ở tất cả các khu vực, trừ khu vực đông Địa Trung Hải.
Tỷ lệ dân số có nguy cơ bảo vệ bằng biện pháp IRS là 6% ở tất cả các quốc gia tiểu vùng Sahara châu Phi trong năm 2014 và 70% ở những quốc gia mà IRS là phương pháp chính để kiểm soát véc tơ. Sự giảm sút số người được bảo vệ bởi IRS ở châu Phi phần lớn là do sự thay đổi chỉ trong một vài quốc gia, nổi bật nhất là Ethiopia, chiếm 1/3 dân số được bảo vệ bằng biện pháp IRS ở châu Phi trong năm 2013.

Đã có một sự chuyển đổi sang sử dụng pyrethroid để phun tồn lưu IRS.
Trong số 53 quốc gia báo cáo các nhóm hóa chất diệt côn trùng đã phun trong năm 2014, thì chỉ có 29 quốc gia đã sử dụng hóa chất pyrethroides, 14 quốc gia đã sử dụng pyrethroid và một hoặc hai nhóm hóa chất khác và chỉ có 10 quốc đã không sử dụng pyrethroid. Carbamate là nhóm hóa chất được sử dụng phổ biến nhất và được phun ở 13 quốc gia, trong đó có 6 quốc gia chỉ sử dụng một nhóm hóa chất này. Mức độ suy giảm biện pháp can thiệp phun tồn lưu IRS có thể là do phun hóa chất không phải là nhóm pyrethroid chi phí cáo hơn, cũng như do kháng pyrethroid lan rộng và sử dụng ITNs trên vi mô lớn.
Hiện nay, TCYTTG khuyến cáo cho quản lý kháng hóa chất ở những khu vực với LLINs là nên sử dụng thêm biện pháp phun tồn lưu với hóa chất không phải là nhóm pyrethroid được sử dụng luân phiên.

Châu Phi: hơn ½ dân số có nguy cơ đã tiếp cận với ITN hoặc bảo vệ bằng IRS năm 2014
Kết hợp với dữ liệu được báo cáo bởi các NMCPs, tỷ lệ dân số nguy cơ tiếp cận ITNs trong một hộ gia đình và tỷ lệ người được bảo vệ bởi IRS và hộ gia đình có thể nhận hai biện pháp can thiệp này, tỷ lệ dân số được nhận các biện pháp kiểm soát véc tơ ước tính 59% trong năm 2014.
Tỷ lệ vượt qua 80% ở 9 quốc gia. Mặt dù, tỷ lệ bảo về bằng ITNs nhìn chung cao hơn so với tỷ lệ bảo vệ bởi IRS, ở một số quốc gia IRS là biện pháp kiểm soát véc tơ chính; năm 2014 nó chiếm hơn 80% độ bao phủ kiểm soát véc tơ ở 6 nước.

Kiểm soát bọ gậy (Larval control)
Kiểm soát bọ gậy như một biện pháp can thiệp vector sốt rét được sử dụng ở ít nhất 48 quốc gia trên toàn cầu. Biện pháp kiểm soát này có liên quan đến việc thay đổi hoặc biến đổi môi trường sống của véc tơ, hóa chất diệt bọ gậy và kiểm soát sinh học (ví dụ: sử dụng cá ăn bọ gậy).
Năm 2014, có 48 quốc gia báo cáo sử dụng ít nhất một trong các phương pháp kiểm soát bọ gậy này, nhiều hơn 10 quốc gia so với trong năm trước. Có 32 quốc gia đã báo cáo sử dụng các biện pháp làm thay đổi môi trường sống của véc tơ và 45 quốc gia báo cáo sử dụng biện pháp kiểm soát sinh học và hóa chất diệt bọ gậy. Quy mô của các hoạt động kiểm soát bọ gậy không được báo cáo và rất khó đánh giá chính xác tác động của các biện pháp can thiệp này.