Hiện nay, trên phạm vi toàn cầu có rất nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ tại nhiều châu lục khác nhau đang trên lộ trình tiến tới loại trừ sốt rét với số ca giảm thấp đáng kể, đặc biệt tại các khu vực châu Phi và Đông Nam Á-nơi đã từng xảy ra sốt rét kháng thuốc lan rộng và là những nơi có số ca mắc bệnh, tử vong, nhất là phụ nữ mang thai và trẻ em là cơ sở để Tổ chức Y tế thế giới (WHO) hướng đến loại trừ sốt rét ở một số khu vực.
Hướng đến loại trừ sốt rét ở khu vực châu Âu
Lần đầu tiên trong năm 2015, khu vực châu Âu theo phân vùng của Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) báo cáo không có ca bệnh sốt rét nội địa (zero indigenous cases), phù hợp với mục tiêu của Tuyên bố Tashkent về loại trừ sốt rét trong khu vực vào năm 2015.
Khu vực này gồm 53 quốc gia và vùng lãnh thổ, bao gồm Liên minh châu Âu cũng như các quốc gia Balkan, Nga, Israel, Thổ Nhĩ Kỳ và các quốc gia Nam Caucasus và Trung Á. Năm 1975, khu vực châu Âu của TCYTTG, ngoại trừ Thổ Nhĩ Kỳ không có sốt rét. Thổ Nhĩ Kỳ, số ca mắc sốt rét đã giảm xuống còn 1.263 ca trong năm 1970, nhưng số ca mắc đã gia tăng trở lại lên 9.828 ca vào năm 1975 và đến năm 1977, lên 115.385 ca.
Sự gia tăng số ca mắc sốt rét này là do phát triển nông nghiệp và muỗi kháng hóa chất diệt côn trùng ở vùng Çukurova và Amikova của miền nam Thổ Nhĩ Kỳ. Dịch bệnh được kiểm soát nhanh chóng, với 8.675 ca bệnh được báo cáo trong năm 1990.
Gia tăng các trường hợp mắc liên quan đến chiến tranh vùng vịnh lần đầu tiên và dòng người tỵ nạn từ Iraq, ghi nhận 84.321 ca mắc được báo cáo trong năm 1994 và 81.754 ca trong năm 1995.

Các quốc gia vùng Caucasus và các nước cộng hòa Trung Á, và đến mức độ thấp hơn ởNga, sự gia tăng các ca mắc nhập khẩu vào những năm cuối thập niên 1980 và đầu những năm thập niên 1990, liên quan đến cuộc chiến tranh Afghanistan và sự tan rã của Liên Xô, theo sau đó là tái thiết lập lan truyền sốt rét tại chỗ. Tổng cộng có 9 quốc gia bị ảnh hưởng gồm Armenia, Azerbaijan, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Nga, Tajikistan, Turkmenistan và Uzbekistan.
Các nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Azerbaijan, với 13.135 ca mắc được báo cáo trong năm 1996 và Tajikistan với 29.794 ca mắc được báo cáo trong năm 1997. Kết quả các vụ dịch lớn ở Azerbaijan, Tajikistan và Thổ Nhĩ Kỳ, số ca bệnh đươc báo cáo đạt đỉnh trong khu vực với 90.712 trong năm 1995. Hầu hết ca mắc là do chủng P. vivax, mặc dù P. falciparum đã được ghi nhận ở Tajikistan vào giữa những năm thập niên 1990. Khu vực châu Âu của WHO cũng có một ổ dịch bùng phát ở Bulgaria vào 1995-1996, khi 18 ca mắc sốt rét do P. vivax xảy ra tại chỗ đã được báo cáo và dịch đã được kiểm soát nhanh chóng sau đó.
Năm 2005, các quốc gia và vùng lãnh thổ bị ảnh hưởng từ thực hiện một cam kết chung loại trừ sốt rét (LTSR) vào năm 2015. Những nỗ lực kiểm soát giữa các quốc gia bị ảnh hưởng trong khu vực châu Âu của TCYTTG đã làm giảm số ca mắc tại chỗ từ 32.394 trong năm 2000 xuống còn 5.072 trong năm 2005. Tỷ lệ mắc sốt rét ở mức này mà mục tiêu làm gián đoạn lan truyền sốt rét đã trở nên khả thi toàn bộ khu vực.

Với mục tiêu trong tầm nhìn này, Bộ Y tế các quốc gia Armenia, Azerbaijan, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Nga, Tajikistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Turkmenistan và Uzbekistan đã cam kết thông qua tuyên bố Tashkent trong 2005 về loại trừ bệnh sốt rét trong khu vực vào năm 2015.
Đưa số ca mắc sốt rét nội địa về 0:
Ngoài hỗ trợ chính trị ở mức cao, và những nỗ lực rất lớn từ các chương trình nằm ở các nước bị ảnh hưởng, những nỗ lực loại trừ sốt rét được hưởng lợi từ sự hỗ trợ kỹ thuật của TCYTTG và hỗ trợ tài chính từ Quỹ toàn cầu Phòng chống HIV/AIDS, Lao và Sốt rét (Quỹ toàn cầu_GF) bắt đầu vào năm 2003, với tổng cộng 11 trợ cấp cho 5 quốc gia (Azerbaijan, Georgia, Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan). Tổng số các trường hợp mắc bệnh sốt rét nội địa được báo cáo ở khu vực châu Âu của TCYTTG tiếp tục giảm, chỉ với 179 trường hợp nội địa tại 6 quốc gia trong năm 2010.
Ca mắc sốt rét do P. falciparum nội địa cuối cùng trong khu vực được báo cáo vào năm 2009 ở Tajikistan. Armenia và Turkmenistan đã được chứng nhận không có sốt rét lần lượt từ tháng 10.2010 và tháng 9.2011. Tuy nhiên, năm 2011 và 2012 cho thấy có sự phục hồi lại lan truyền sốt rét ở Georgia (trường hợp cá biệt) và ở Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ (bùng phát cục bộ), kết quả là sốt rét nhập khẩu từ các nước sốt rét lưu hành khác (Afghanistan, Ấn Độ và Pakistan). Sự nổi lên này đã được kiểm soát và số ca mắc bản địa trong khu vực đã giảm xuống bằng không trong năm 2015.
Duy trì không có ca mắc
Đạt được không có ca mắc sốt rét tại chỗ ở khu vực châu Âu của TCYTTG là rất mong manh. Mặc dù không có ca mắc nào được báo cáo trong năm 2015, nhưng vẫn còn có khả năng các trường hợp mắc có thời gian ủ bệnh kéo dài sẽ xảy ra trong năm 2016. Hơn nữa, khu vực này dễ nhập khẩu ca bệnh liên tục từ các khu vực lưu hành khác, điều này mang lại mối đe dọa tái lập lan truyền bệnh. Duy trì không có ca mắc bản địa sẽ yêu cầu tiếp tục cam kết chính trị, luôn thận trọng với nguy cơ tái xuất hiện lan truyền bệnh, và đầu tư hơn nữa nhằm tăng cường các hệ thống y tế để đảm bảo rằng bất kỳ sự phục hồi nào cũng có thể được kiểm soát nhanh chóng.

Hướng đến loại trừ sốt rét ở các khu vực khác của WHO
Khu vực châu Phi:
Algeria đang ở giai đoạn loại sốt rét. Không có ca mắc tại chỗ báo cáo trong năm 2014 và trong số 266 ca mắc được báo cáo thì có 260 ca là nhập khẩu/ ngoại lai (6 trường hợp còn lại không xác định được và có thể một vài trường hợp là nội địa). Số ca mắc tại chỗ giảm mạnh so với số ca trong năm 2012, 55 ca nội địa và 3 ca nhập khẩu được ghi nhận.
Cabo Verde đã thực hiện Giai đoạn tiền loài trừ sốt rét kể từ năm 2010. Quốc đảo này đã báo cáo chỉ có 46 ca mắc trong năm 2014, trong đó có 20 ca nhập khẩu và chỉ có 26 ca xảy ra tại chỗ. Các đảo khác cũng đã báo cáo số ca mắc tương đối thấp trong những năm gần đây.
Zanzibar, Tanzania đã báo cáo có 2.600 ca được xác định và 1.646 ca phỏng đoán trong năm 2014, số ca mắc này tăng hơn so với năm 2013 (2.194 ca xác định và 354 ca phỏng đoán).

Comoros đã báo cáo ca sốt rét xác định giảm đáng kể từ 53.156 trong năm 2013 xuống còn 2.203 ca trong năm 2014, theo sau khi sử dụng điều trị thuốc hàng loạt với dihydroartemisinin-piperaquine (DHA-PPQ) cộng vớiprimaquin và phân bố màn tồn lưu kéo dài trên vi mô lớn (Long Lasting Insecticidal Nets_LLINs).
Có 4 quốc gia Sáng kiến khu vực loại trừ sốt rét 8 (E8) (Botswana, Namibia, South Africa and Swaziland) có mục tiêu loại trừ sốt rét vào năm 2015. Tuy nhiên, 3 trong 4 quốc gia này báo cáo gia tăng số ca sốt rét xác định trong năm 2014 so với số ca mắc trong năm 2013 (Botswana tăng từ 456 lên 1346 ca, Namibia từ 4.911 lên 15.914 và Nam Phi từ 8.645 lên 11.705).
Swaziland đang trong giai đoạn tiền loại trừ sốt rét, số ca xác định giảm từ 962 trong năm 2013 xuống còn 711 trong năm 2014; số ca mác giảm xuống này vẫn tăng hơn so với năm 2012 (562 ca báo cáo), mặc dù điều này có thể chỉ là gia tăng sử dụng test chẩn đoán. Đáng chú ý, trong số 606 ca được điều tra trong năm 2014, thì có 322 ca nhập khẩu. Với việc tiếp tục đầu tư trong kiểm soát sốt rét, đặc biệt là năng lực chẩn đoán, dự kiến các quốc gia này sẽ tiếp tục tiến đến loại trừ sốt rét.
Khu vực châu Mỹ:
Argentina đã báo cáo không có ca bệnh sốt rét tại chỗ kể từ năm 2011. Năm 2015, cả nước trải qua đánh giá đầu tiên của quá trình chứng nhận không có sốt rét.
Paraguay đã báo cáo không có ca bệnh tại chỗ kể từ năm 2012 và 8 ca nhập khẩu trong năm 2014.
Costa Rica đã báo cáo không có ca bệnh tại chỗ trong năm 2013 và 2014 (nhưng có 5 ca nhập khẩu và 1 ca tái phát trong năm 2014).

Hai quốc gia trong giai đoạn tiền loại trừ sốt rét đã báo cáo giảm ca mắc tại chỗ trong năm 2013 và năm 2014: Belize (từ 20 ca xuống còn 19 ca và tất cả các này đều nhiễm P. vivax) và Ecuador (từ 544 xuống còn 368 ca, nhiễm cả P. vivax và P. falciparum).
Số ca mắc tại chỗ vẫn không đổi ở El Salvador là 6 trường hợp (tất cả nhiễm P. vivax), trong khi ở Mexico số ca mắc tăng từ 495 trong năm 2013 lên 656 trong năm 2014 (tất cả ca đều nhiễm loài P. vivax). 10 quốc gia Trung Mỹ và vùng Caribbean (Belize, Costa Rica, Dominican, El Salvador, Guatemala, Haiti, Honduras, Mexico, Nicaragua và Panama) đã kết nối một Sáng kiến với mục tiêu loại trừ sốt rét vào năm 2020, với sự hỗ trợ của Quỹ Toàn cầu.
Khu vực Đông Địa Trung Hải:
Số ca mắc tại chỗ có xuống hướng tiếp tục giảm ở hai quốc gia trong giai đoạn loại trừ sốt rét, Iran (479 ca trong năm 2013 xuống còn 358 ca trong năm 2013) và Saudi Arabia (34 ca trong năm 2013 xuống còn 30 ca trong năm 2014). Iran đã thực hiện giai đoạn loại trừ sốt rét kể từ năm 2010 và Saudi Arabia năm 2008. 4 quốc gia đạt được không có ca bệnh tại chỗ cách đây vài năm (Ai cập năm 1998, Iraq năm 2009, Oman năm 2004 và Syrian năm 2005), và bây giờ đang cố găng ngăn chặn tái xuất hiện. Iraq và Syrian không báo cáo có ca bệnh tại chỗ trong năm 2014, nhưng thông tin từ hai nước này còn hạn chế. Oman đạt được gián đoạn lan truyền sốt rét vào năm 2004–2006 và hiện nay đang áp dụng chiến lược phòng chống tái xuất hiện, với sự thận trọng của các dịch vụ y tế nói chung và giám sát dựa vào ca bệnh. Kể từ năm 2007, Oman đã chiến đấu các đợt dịch nhỏ liên quan đến các ca nhập khẩu; Oman đã báo cáo có 986 ca nhập khẩu và 15 ca được giới thiệu trong năm 2014. Ai Cập báo cáo có 22 ca tại chỗ trong năm 2014.
Khu vực Đông Nam Á:
Số ca sốt rét tại chỗ cuối cùng ở Sri Lanka được báo cáo vào tháng 10/2012; hiện nay nước này đang trong giai đoạn phòng chống sốt rét quay trở lại (reintroduction phase), cho thấy sự tiến bộ to lớn từ số ca mắc trong năm 2000 là 210.039 ca. Hai quốc gia trong giai đoạn tiền loại trừ sốt rét (Bhutan và Triều Tiên) đã cho thấy một sự suy giảm số ca mắc P. vivax tại chỗ trong năm 2013. Bhutan, chỉ có 19 ca tại chỗ được ghi nhận (so với 15 ca nội tại và 30 ca sốt rét quay trở lại trong năm 2013). Tuy nhiên, Triêu Tiên với số ca mắc lớn hơn đáng kể với 10.535 ca trong năm 2014 (14.407 trong năm 2013) và số người tiếp xúc với nguy cơ mắc sốt rét vẫn còn cao (11,7 triệu người) với 47% tổng dân số.

Khu vực Tây Thái Bình Dương:
Trung Quốc đang tiến triển nhanh chóng hướng đến loại trừ sốt rét, và năm 2015 chuyển sang giai đoạn loại trừ sốt rét. Quốc gia này chỉ ghi nhận 56 ca tại chỗ hay nội địa (indigenous cases) trong năm 2014, trong đó năm 2012, có 244 ca và năm 2013, có 86 ca. Lan truyền tiếp tục hạn chế ở một số khu vực, đặc biệt ở các khu vực biên giới tỉnh Vân Nam (giáp giới với Lào và Myanmar) và Tây Tạng.
Trung Quốc có số ca nhập khẩu lớn, với 2.864 ca trong năm 2014, chủ yếu từ tiểu vùng sa mạc Sahara, châu Phi nhưng cũng có thể nhiễm từ các quốc gia láng giềng gồm Lào và Myanmar.
Hàn Quốc, cũng đang ở giai đoạn loại trừ sốt rét, cho thấy gia tăng số ca tại chỗ từ 383 trong năm 2013 lên 557 ca trong năm 2014. Một số lượng lớn người có nguy cơ, mặc dù chương trình quốc gia tiếp tục đáp ứng tiêu chí giám sát và điều trị cho giai đoạn loại trừ sốt rét toàn quốc.
Malaysia đang trong giai đoạn tiền loại trừ sốt rét và tiếp tục hướng đến loại trừ sốt rét, ghi nhận 606 ca tại chỗ trong năm 2014 (nhiễm P. falciparum, P. vivax và P. malariae), giảm so với năm 2013 (1.092 ca).

Lan truyền sốt rét ở Malaysia được giới hạn về mặt địa lý, chủ yếu ở các bang Sarawak và Sabah, Malaysia nhưng có 1.3 triệu người vẫn sống ở vùng dịch bệnh. Malaysia cũng phải đối mặt với một mối đe dọa ngày càng gia tăng của bệnh sốt rét lan truyền từ động vật sang người, với 2.551 ca nhiễm tại chỗ do P. knowlesi được ghi nhận trong năm 2014, chiếm 81% trong tổng số ca được ghi nhận trong năm. Philippines đang tiếp tục thực hiện loại trừ sốt rét ở cấp vùng và vào năm 2014 đã giảm 25 trong số 81 tỉnh không có sốt rét. Trong năm 2014, ghi nhận có tổng cộng 4.903 ca sốt rét được xác định, giảm kể từ năm 2013 và 2012 (7.133 ca trong năm 2012 và 6.514 ca trong năm 2013).
Loại trừ sốt rét ở tiểu vùng sông Mê Kông
Phản ứng với mối đe dọa đa kháng thuốc, bao gồm P. falciparum kháng cả thuốc phối hợp ACTs, thực hiện cải thiện trong thời gian gần đây về kiểm soát sốt rét, 4 quốc gia ở tiểu vùng sông Mê Kông gồm Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam đã thiết lập Chiến lược loại trừ sốt rét ở tiểu vùng sông Mê Kông (2015-2030). Mục tiêu cuối cùng của Chiến lược là Loại trừ sốt rét P. falciparum vào 2025 và tất cả các KSTSR Plasmodium sp. khác vào năm 2030, ở tất cả các quốc gia trong tiểu vùng sông Mê Kông.
Chiến lược này ưu tiên làm gián đoạn nhanh lan truyền ở những khu vực ảnh hưởng đa kháng thuốc, gồm kháng cả thuốc phối hợp có thành phần artemisinins (ACTs). Ở những khu vực và các quốc gia nơi lan truyền sốt rét đã gián đoạn, mục tiêu sẽ duy trì tình trạng không có sốt rét và giải quyết ca sốt rét nhập khẩu.