Ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc là khả năng một chủng loại ký sinh trùng có thể sống sót, phát triển mặc dù bệnh nhân đã được điều trị và hấp thu một liều lượng thuốc bằng hoặc cao hơn liều thuốc thông thường. Hiện tượng kháng thuốc của ký sinh trùng là một khó khăn kỹ thuật chuyên môn trong điều trị bệnh sốt rét, nó mang đến những hậu quả nặng nề nên cần có biện pháp khắc phục.
Nguyên nhân gây nên ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc
Ký sinh trùng sốt rét phát sinh, phát triển do 3 nguyên nhân chủ yếu là áp lực thuốc điều trị, hoạt động sinh thái, di biến động của con người và sự tiếp nhận của muỗi truyền bệnh sốt rét tại địa phương.
Do áp lực thuốc
Trên thực tế, khi dùng nhiều một loại thuốc điều trị bệnh sốt rét trong một thời gian dài cho một đối tượng lớn trong quần thể dân cư sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho chủng loại ký sinh trùng sốt rét bị biến dị, sự kháng thuốc tự nhiên dần dần được nhân lên, thay thế những chủng loại nhạy cảm thuốc bị tiêu diệt dần; hiện tượng này còn gọi là quá trình sàng lọc của áp lực thuốc. Gen nhạy cảm và kháng thuốc của ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum là một phức hợp đã được chứng minh nếu đạt đơn dòng thì có đáp ứng khác nhau đối với thuốc sốt rét như có dòng nhạy, có dòng kháng.
Nếu dùng nhiều một loại thuốc trong một thời gian dài, nhất là dùng bừa bãi không có sự kiểm soát, không đủ liều lượng trong các trường hợp đối tượng bệnh nhân bị sốt rét sơ nhiễm, có mật độ ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum cao, khó diệt sạch hết thì chủng loại ký sinh trùng này rất dễ thích nghi dần với thuốc; đặc biệt đối với loại thuốc kháng folic và kháng folinic theo cơ chế kháng plasmid, còn được gọi là quá trình thích nghi của ký sinh trùng sốt rét dưới áp lực thuốc.
Một số loài thuốc được sử dụng trong điều trị bệnh sốt rét |
Đối với một số loại thuốc sốt rét, hiện tượng kháng thuốc có thể mất đi sau một thời gian ngừng sử dụng loại thuốc đó.
Do hoạt động sinh thái của con người và sự di biến động dân
Chủng loại ký sinh trùng sốt rét thường phát sinh, phát triển hiện tượng kháng thuốc ở những nơi có nhiều người là nguồn bệnh, có mật độ ký sinh trùng cao, nhất là đối với những quần thể dân cư chưa có miễn dịch mới đi vào vùng sốt rét lưu hành nặng.
Ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc lan rộng và lây truyền đi xa chủ yếu do người bệnh là nguồn bệnh di chuyển đến những nơi khác.
Do sự tiếp nhận của muỗi truyền bệnh sốt rét tại địa phương
Hiện tượng ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc lan truyền đi gần hay đi xa đều do tình trạng di biến động của bệnh nhân sốt rét và khả năng tiếp nhận của muỗi truyền bệnh sốt rét tại địa phương.
Ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc chỉ khu trú, cắm rễ tại một địa phương khi chủng loại ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc hoàn thành được chu kỳ phát triển hữu tính trong cơ thể muỗi truyền bệnh ở địa phương. Cần lưu ý loài muỗi truyền bệnh chủ yếu Anopheles dirus có khả năng lan truyền mạnh chủng loại ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum kháng thuốc.
Hậu quả của ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc
Ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc gây nên hậu quả làm cho việc điều trị triệt căn bệnh sốt rét gặp nhiều khó khăn. Vì vậy bệnh sẽ diễn biến nặng hơn, kéo dài dai dẳng, tái phát nhiều đợt, tỷ lệ chuyển từ sốt rét thể thông thường thành sốt rét ác tính cao và tỷ lệ tử vong do sốt rét gia tăng.
Khi dịch sốt rét xảy ra do ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, việc phòng chống dịch rất khó khăn, lại càng khó khăn hơn trong việc thanh toán vì nguồn mầm bệnh sốt rét khó giải quyết một cách có hiệu quả. Tỷ lệ và mật độ hoạt động của muỗi truyền bệnh sốt rét bị nhiễm chủng loại ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc tăng lên sẽ có nguy cơ làm lan rộng tình trạng ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc ra các vùng khác.
Về mặt kinh tế, số ngày công lao động sản xuất của người dân bị mất đi khi sốt rét kháng thuốc gia tăng, số tiền chi phí cho việc điều trị bệnh nhân và cho nghiên cứu sản xuất các loại thuốc chống kháng sẽ rất lớn.
Biện pháp phòng chống ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc
Để phòng chống ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, cùng một lúc phải thực hiện song hành các biện pháp ngăn ngừa và biện pháp xử trí.
Ngăn ngừa ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc
Cần có hướng dẫn cụ thể và giám sát chặt chẽ công tác điều trị bệnh sốt rét ở các tuyến y tế. Phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc điều trị nghiêm túc tại các cơ sở y tế như bệnh xá, bệnh viện; kể cả các trạm y tế theo hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét đã được Bộ Y tế ban hành.
Tổ chức công tác truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống sốt rét một cách rộng rãi để cho cộng đồng người dân biết cách tự chẩn đoán sốt rét và tự điều trị đúng, chính xác nhằm tuân thủ việc sử dụng thuốc sốt rét đủ liều lượng. Cũng cần tăng cường quản lý các cơ sở hành nghề y dược tư nhân, nhất là các hiệu thuốc tư ở cơ sở.
Chú ý tăng cường việc kiểm tra ký sinh trùng sốt rét ở tất cả bệnh nhân sốt rét được điều trị, thực hiện điều trị triệt căn mầm bệnh, sử dụng thuốc sốt rét đủ liều lượng, đúng phác đồ quy định. Cần hạn chế và thận trọng khi có chỉ định điều trị mở rộng hay điều trị hàng loạt để ngăn ngừa yếu tố áp lực thuốc. Hiện nay theo quy định của Bộ Y tế, không thực hiện biện pháp điều trị dự phòng bằng thuốc, biện pháp điều trị phỏng chừng hoặc sử dụng liều thuốc thấp hơn liều thuốc thông thường đã ấn định.
Phải có sự nghiên cứu, chỉ đạo, chọn lựa phác đồ điều trị chính xác, có hiệu quả trên cơ sở dược động học của thuốc. Luôn luôn chủ động có loại thuốc dự bị để sử dụng khi gặp phải hiện tượng ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc. Có thể thay đổi chiến lược sử dụng thuốc sốt rét trong từng giai đoạn, từng thời kỳ và giữa các vùng khác nhau. Cũng cần có chủ trương phân bổ thuốc sốt rét có hiệu lực cao cho các vùng sốt rét lưu hành nặng và những cơ sở y tế có nguy cơ gặp phải nhiều sốt rét ác tính.
Ngoài ra, có kế hoạch và biện pháp giám sát thường xuyên tình hình ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc trong vùng, trong khu vực để kịp thời phát hiện sớm tình trạng ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc.
Xử trí ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc
Tổ chức công tác nghiên cứu sản xuất các loại thuốc sốt rét chống kháng bằng cách thường xuyên giám sát hiệu lực của những loại thuốc sốt rét đang sử dụng mặc dù chưa bị kháng thuốc hay đã bị kháng thuốc để đánh giá sự phát triển và lan truyền hiện tượng ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc. Các nhà khoa học cũng cần nghiên cứu để tìm ra những phác đồ điều trị chống kháng tối ưu với các loại thuốc phối hợp.
Tăng cường việc quản lý bệnh nhân sốt rét là nguồn bệnh để hạn chế ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc lan truyền, thực hiện tốt các biện pháp phòng chống muỗi truyền bệnh có hiệu quả để góp phần làm cho ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc không lan rộng.
Các cơ sở y tế cần chú ý việc điều trị triệt căn mầm bệnh, không để bệnh tái phát hay tái nhiễm; đồng thời phải ngừng sử dụng những loại thuốc sốt rét đã bị kháng với tỷ lệ cao.
Khuyến nghị
Qua điều tra của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương tại xã Đắc Nhau, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước; ở đây đã xuất hiện chủng loại ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum kháng lại với thuốc điều trị artesunate với tỷ lệ kháng 14,6%. Artesunate là loại thuốc điều trị sốt rét thuộc thế hệ mới, sử dụng cho hầu hết các bệnh nhân sốt rét nặng, sốt rét ác tính ở miền Bắc và miền Trung-Tây Nguyên... Đây là điểm đầu tiên tại nước ta đã phát hiện ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum kháng lại với thuốc artesunate. Chủng loại ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc artesunate này đã được phát hiện ở biên giới Campuchia, Thái Lan, Myanmar trước đây và đến năm 2009 thì phát hiện được tại Việt Nam. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), nếu tỷ lệ kháng thuốc trên 10% thì không nên tiếp tục sử dụng loại thuốc đã bị kháng để điều trị bệnh sốt rét ở khu vực.
Để góp phần khắc phục và giải quyết tình trạng ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc có khả năng lan rộng hiện nay. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trong hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét được Bộ Y tế ban hành vào cuối năm 2009 đã chỉ định ngừng sử dụng thuốc artesunate đơn thuần mà sử dụng thuốc thay thế là thuốc phối hợp có dẫn chất artemisinine (gọi là ACT: Artemisinine base combination treatment) gồm dihydroartemisinine kết hợp với piperaquine, các biệt dược là Arterakine hoặc CV Artecan. Phác đồ điều trị cũng quy định đối với bệnh nhân sốt rét bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum, trước tiên phải sử dụng loại thuốc điều trị ưu tiên (first line) là dihydroartemisinine-piperaquine. Nếu chứng minh được sự điều trị thất bại với loại thuốc này mới được chuyển sang sử dụng thuốc điều trị thay thế (second line) gồm quinine kết hợp doxycycline đối với người lớn hoặc quinine kết hợp clindamycine đối với trẻ em dưới 8 tuổi và phụ nữ có thai. Cần chú ý không được điều trị thuốc dihydroartemisinine-piperaquine cho phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu.