Thực tế hiện nay các cơ sở điều trị từ tuyến dưới đến tuyến trên, kể cả tuyến trung ương chỉ mới quan tâm đến việc chẩn đoán, điều trị sốt rét. Việc theo dõi, đánh giá hiệu lực thuốc sốt rét sử dụng ít được chú ý nên không phân loại được sự đáp ứng điều trị để xử trí kịp thời các trường hợp điều trị thất bại nhằm chữa trị khỏi bệnh sớm, người bệnh phải mất thời gian nằm viện dài ngày. Vì vậy các cơ sở điều trị cần thực hiện vấn đề này khi có điều kiện.
Tiêu chuẩn chọn bệnh và loại trừ bệnh để đánh giá
Muốn đánh giá hiệu lực thuốc điều trị sốt rét bảo đảm an toàn cho người bệnh và có cơ sở khoa học trong quá trình theo dõi, cần tuân thủ những quy định về tiêu chuẩn chọn bệnh và tiêu chuẩn loại trừ bệnh.
Bệnh nhân sốt rét được chọn để theo dõi, đánh giá khi bị nhiễm đơn thuần chủng loại ký sinh trùng Plasmodium falciparum. Mật độ ký sinh trùng trong máu từ 1.000 đến 200.000 ký sinh trùng thể vô tính trên 1 mm3 máu. Nhiệt độ đo được ở nách người bệnh từ 37,5oC trở lên hoặc nhiệt độ đo được ở miệng hay hậu môn từ 38oC trở lên. Bệnh nhân có thể uống được thuốc, không bị nôn.
Bệnh nhân sốt rét được loại trừ, không theo dõi, đánh giá khi có những dấu hiệu nguy hiểm của thể sốt rét nặng và sốt rét ác tính do nhiễm ký sinh trùng Plasmodium falciparum. Người bệnh bị nhiễm phối hợp các chủng loại ký sinh trùng hoặc nhiễm đơn thuần các loại Plasmodium khác. Ngoài ra cũng cần loại trừ các trường hợp bệnh nhân bị suy dinh dưỡng nặng hoặc đang mang thai.
Trong quá trình theo dõi, đánh giá hiệu lực thuốc điều trị sốt rét, điều bắt buộc các cơ sở y tế phải thực hiện việc xét nghiệm lam máu bằng kính hiển vi. Bệnh nhân được lấy lam máu giọt dày và lam máu giọt mỏng xét nghiệm vào ngày đầu tiên (ngày D0) để xác nhận các tiêu chuẩn người bệnh được chọn lựa hay loại trừ. Sau đó, lam máu giọt dày được tiếp tục xét nghiệm vào các ngày D2, D3, D7, D14, D21 và D28 với sự căn dặn cụ thể về thời gian cần làm xét nghiệm lam máu của bác sĩ hoặc làm xét nghiệm lam máu vào bất cứ ngày nào nếu người bệnh tự quay lại để đánh giá diễn biến của ký sinh trùng.
Mật độ của ký sinh trùng không tính bằng ký hiệu dấu cộng (+) mà được tính bằng cách đếm số lượng ký sinh trùng thể vô tính trên 200 bạch cầu ở lam máu giọt dày. Số lượng ký sinh trùng thể vô tính trên 1 mm3 máu sẽ được tính bằng cách lấy số lượng ký sinh trùng thể vô tính đếm được chia cho số lượng bạch cầu đếm được; sau đó nhân với số bạch cầu chuẩn thường là 8.000 bạch cầu trên 1 mm3 máu.
Công thức tính được thể hiện như sau:
Số ký sinh trùng đếm được
Mật độ ký sinh trùng/mm3 máu = x 8.000
Số bạch cầu đếm được
Phân loại đáp ứng điều trị
Quá trình theo dõi triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm lam máu đã thực hiện ở trên sẽ giúp cho các cơ sở y tế đánh giá được việc điều trị thành công hay thất bại đối với hiệu lực của thuốc sốt rét đang sử dụng.
Điều trị thành công còn gọi là đáp ứng điều trị, bệnh nhân được xác định khỏi bệnh khi hết triệu chứng lâm sàng, sạch ký sinh trùng sốt rét sau 3 ngày điều trị (ngày D3) và không xuất hiện trở lại ký sinh trùng sốt rét trên lam máu xét nghiệm trong suốt thời gian sau đó tính cho đến ngày D28.
Điều trị thất bại có thể là thất bại sớm và thất bại muộn.
- Điều trị thất bại sớm khi người bệnh có một trong các biểu hiện sau đây:
Bệnh nhân xuất hiện các dấu hiệu nguy hiểm hoặc sốt rét trở nặng vào ngày D1, D2 hoặc D3 kèm theo có ký sinh trùng sốt rét.
Mật độ ký sinh trùng sốt rét ngày D2 cao hơn ngày D0 ngay cả khi bệnh nhân không sốt.
Còn ký sinh trùng sốt rét vào ngày D3 và nhiệt độ đo được ở nách người bệnh từ 37,5oC trở lên.
Mật độ ký sinh trùng sốt rét vào ngày D3 bằng hoặc trên 25% so với mật độ ký sinh trùng của ngày D0.
- Điều trị thất bại muộn khi người bệnh xuất hiện sốt trở lại và hoặc có ký sinh trùng sốt rét từ ngày D4 đến ngày D28 sau điều trị.
Một điều cần lưu ý là nếu kết quả xét nghiệm chỉ có thể giao bào của ký sinh trùng sốt rét nhưng bệnh nhân không sốt thì không phải là điều trị thất bại. Trường hợp này cần dùng thuốc primaquin để diệt giao bào chống lây lan.
Các trường hợp điều trị sốt rét thất bại khi phát hiện được cần phải thay thế bằng loại thuốc sốt rét khác có hiệu lực cao hơn trong nhóm thuốc điều trị thay thế được Bộ Y tế quy định.
Để bảo đảm việc đánh giá hiệu lực thuốc điều trị sốt rét trong công tác quản lý chuyên môn, lãnh đạo các cơ sở y tế cần giao trách nhiệm cụ thể cho bác sĩ trực tiếp điều trị bệnh nhân để thực hiện quy trình này; góp phần điều trị bệnh sốt rét có hiệu quả. Tối thiểu bệnh viện huyện, thị xã, thành phố trở lên phải bảo đảm việc đánh giá được hiệu lực của thuốc điều trị sốt rét.