I.Đặt vấn đề:
Tây Nguyên thuộc địa bàn Viện sốt rét-KST-CT Quy Nhơn chịu trách nhiệm nghiên cứu và chỉ đạo bao gồm 4 tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Dak Lak và Dak Nông, với dân số 3.362, có90% dân số đang sống trong vùng sốt rét lưu hành.
Theo số liệu thống kê, tình hình sốt rét năm 2005 của Viện, tại khu vực Tây Nguyên so với cùng kỳ 2004: bệnh nhân sốt rét (BNSR) giảm 26,59%, sốt rét ác tính (SRAT) tăng 49,09%, tử vong sốt rét (TVSR) tuy có giảm 9,09%, nhưng số tử vong còn cao (10/13 ca TVSR toàn khu vực). Tuy nhiên tại tỉnh Kon Tum, bệnh nhân sốt rét và sốt rét ác tính có xu hướng gia tăng, tỉnh Gia Lai BNSR giảm chậm và TVSR tăng so với năm 2004; nguy cơ gia tăng sốt rét tại các tỉnh này là một trong những vấn đề cần có biện pháp chỉ đạo và triển khai các hoạt động phòng chống sốt rét (PCSR) kịp thời để hạn chế mắc và tử vong do sốt rét.Để đánh giá tình hình và đề xuất các giải pháp khống chế nguy cơ gia tăng sốt rét, Viện trưởng và các Trưởng khoa phòng của Viện đã cùng với Lãnh đạo Sở Y tế và TTPCSR/TTYTDP các tỉnh Tây Nguyên giám sát hoạt động PCSR từ 12/2-16/2/2006.
II.Nội dung giám sát:
- Phân tích số liệu BNSR, SRAT, TVSR, KSTSR năm 2005 so sánh cùng kỳ 2004.
- Đánh giá các hoạt động PCSR năm 2005, tình hình sốt rét ở các vùng trọng điểm có TVSR và sốt rét gia tăng.
- Xác định các khó khăn và vấn đề còn tồn tại trong công tác PCSR.
- Đề xuất giải pháp khắc phục và khống chế nguy cơ mắc và tử vong do sốt rét.
III.Một số đặc điểm sốt rét 4 tỉnh Tây Nguyên
3.1. Phân vùng dịch tễ sốt rét can thiệp
Bảng 1: Phân vùng dịch tễ sốt rét can thiệp các tỉnh Tây Nguyên
TT | Chỉ số vùng sốt rét | Không có SRLH | Nguy cơ SR quay trở lại | SRLH nhẹ | SRLH vừa | SRLH nặng | Tổng |
1 | Số xã, phường | 0 | 20 | 60 | 168 | | 470 |
2 | Dân số chung | 0 | 272.158 | 769.161 | 1.210.292 | 1.111.372 | 3.382.983 |
3 | Dân số SRLH | 0 | 0 | 769.161 | 1.210.292 | 1.111.372 | 3.090.825 |
4 | % DS SRLH/ DS chung | 0 | 0 | 22,90 | 36,00 | 33,00 | 91,90 |
Tây Nguyên có 3.090.825 dân số sống trong vùng sốt rét lưu hành, chiếm trên 90% dân số; trong khi đó thống kê toàn quốc cho thấy có 18.563.244 người chiếm 23% dân số chung sống trong vùng SRLH. Như vậy phần lớn dân số Tây Nguyên luôn phải đối mặt với nguy cơ nhiễm sốt rét và chịu ảnh hưởng của bệnh này.
3.2. Tình hình sốt rét các tỉnh Tây Nguyên từ 2001-2005
Bảng 2: Diễn biến BNSR 3 tỉnh từ2001-2005
TT | Chỉ số SR | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | So sánh 2001-2005 |
1 | Gia Lai | 18928 | 14417 | 13666 | 8487 | 6951 | -63,28 |
2 | Kon Tum | 6263 | 4858 | 3862 | 3262 | 3347 | -46,56 |
3 | Dak lak | 17910 | 13271 | 10485 | 7886 | 4247 | -76,29 |
4 | Dak Nông | 7873 | 6794 | 8227 | 5586 | 3938 | -49,98 |
Tây Nguyên | 50974 | 39340 | 36240 | 25221 | 18483 | -63,74 |
Toàn miền | 109553 | 78125 | 69693 | 53957 | 41117 | -62,47 |
% so với toàn miền | 46,53% | 50,36% | 52,00% | 46,74% | 44,95% | |
Sốt rét có xu hướng giảm từ năm 2001 đến 2005, riêng Konn Tum 2005 tăng so với 2004; so sánh 2001/2005 BNSR các tỉnh Tây Nguyên giảm từ 46,56%-76,29%.
3.3. Tình hìnhtử vong sốt rétcác tỉnh Tây Nguyên từ 2001-2005
Bảng 3: Diễn biến TVSR 4 tỉnh Tây Nguyên từ 2001-2005
TT | Tỉnh | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 |
1 | Gia Lai | 15 | 10 | 11 | 5 | 6 |
2 | Kon Tum | 1 | 0 | 3 | 1 | 1 |
3 | Đak Lak | 12 | 11 | 5 | 4 | 2 |
4 | Đak Nông | 10 | 8 | 10 | 1 | 1 |
Tây Nguyên | 38 | 29 | 29 | 11 | 10 |
MT-TN | 76 | 43 | 39 | 20 | 13 |
% TN/MT-TN | 50,00 | 67,00 | 74,00 | 55,00 | 77,00 |
Qua 5 năm, số TVSR các tỉnh Tây Nguyên giảm đáng kể; từ 38 ca (2001) chỉ còn 10 ca (2005), trong đó các tỉnh Kon Tum và Dak Nông mỗi tỉnh chỉ có 1 ca. Tuy nhiên số TVSR ở đây vẫn chiếm > 50% so với các nơi khác trong nước.
3.4. Tỷ lệ%KSTSR theo tỉnh
Bảng 4: Tỷ lệ %KSTSR từ2001-2005 các tỉnh khu vực Tây Nguyên
TT | Tỉnh | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | % (+,-) 2001-2005 |
1 | Gia Lai | 7.02 | 5.32 | 3.67 | 2.19 | 0.55 | -63,52 |
2 | Kon Tum | 8.68 | 6.39 | 5.60 | 3.14 | 1.25 | -48,65 |
3 | Đak Lak | 1.43 | 1.16 | 0.82 | 0.57 | 0.74 | -92,12 |
4 | Đak Nông | 5.21 | 4.19 | 2.76 | 2.26 | 1.90 | -85,58 |
| TN | 4,61 | 3,59 | 2,69 | 1,72 | 1,17 | -74,51 |
| MT-TN | 4,73 | 3,31 | 2,65 | 1,90 | 1,48 | -68,74 |
Tỷ lệ KSTSR năm 2005 của khu vực Tây Nguyên giảm 74,51% so với năm 2001, nhiều tỉnh tỷ lệ thấp dưới 1% như Gia Lai, Dak Lak.
IV.Kết quả phân tích tình hình sốt rét các tỉnh năm 2005
4.1.Tình hình sốt rét 4 tỉnh Tây Nguyên2005 và2004:
Bảng 5: So sánh BNSR, SRAT, TVSR và KSTSR 5 tháng năm 2004 và 2005
TT | Tỉnh | BNSR | SRAT | TVSR |
2004 | 2005 | % (-,+) | 2004 | 2005 | % (-,+) | 2004 | 2005 | % (-,+) |
1 | Gia Lai | 8487 | 6951 | -18,10 | 34 | 52 | +52,94 | 5 | 6 | +1 |
2 | Kon Tum | 3262 | 3347 | +2,61 | 4 | 7 | +75,00 | 1 | 1 | - |
3 | Dak Lak | 7886 | 4247 | -45,74 | 11 | 20 | +81,82 | 4 | 2 | -2 |
4 | Dak Nông | 5586 | 3938 | -29,50 | 6 | 3 | -50,00 | 1 | 1 | - |
6 | Tây Nguyên | 25.221 | 18.515 | -26,59 | 55 | 82 | +49,09 | 11 | 10 | -1 |
So sánh diễn biến sốt rét 2005 với 2004 thấy BNSR tỉnh Kon Tum tăng 2,61%, TVSR tăng 01 trường hợp ở Gia Lai và giảm 02 trường hợp ở Dak Lak; không có dịch sốt rét xảy ra. Tuy nhiên, số SRAT tăng cao từ 55 ca (2004) lên 82 ca (2005), duy nhất chỉ có tỉnh Dak Nông số SRAT giảm.
4.2. Tỷ lệ P.falciparum ở các tỉnh Tây Nguyên năm 2005
Bảng 6: Cơ cấu KSTSR 2005 các tỉnh Tây Nguyên
TT | Loài KSTSR | Gia Lai | Kon Tum | Dak Lak | Dak Nông |
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % |
1 | P.falciparum | 2428 | 91,67 | 709 | 87,53 | 877 | 89,59 | 547 | 91,17 |
2 | P.vivax | 218 | 8,23 | 100 | 12,35 | 102 | 10,41 | 48 | 8,00 |
3 | PH (P.f+P.v) | 3 | 0,10 | 1 | 0,12 | 0 | 0 | 5 | 0,83 |
P.falciparum vẫn luôn chiếm ưu thế tuyệt đối trong cơ cấu KSTSR (>80%), đây là loài có khả năng gây sốt rét nặng, sốt rét ác tính và dẫn đến tử vong; do đó nguy cơ TVSR vẫn còn cao tại khu vực Tây Nguyên.
4.3. Phân tích các trường hợp TVSR tại Tây Nguyên năm 2005
Bảng 7: Phân tích các trường hợp TV tại Tây Nguyên
TT | Chỉ số phân tích | Gia Lai | Kon Tum | Dak Lak | Dak Nông | Tổng |
1 | TS TV | 6 | 1 | 2 | 1 | 10 |
2 | Tuổi | <15 | 4 | 1 | 0 | 1 | 6 (60%) |
>15 | 2 | 0 | 2 | 0 | 4 (40%) |
3 | Giới | Nam | 2 | 1 | 2 | 1 | 6 (60%) |
Nữ | 4 | 0 | 0 | 0 | 4 (40%) |
4 | Dân tộc | Kinh | 3 | 0 | 2 | 0 | 5(50%) |
Thiểu số | 3 | 1 | 0 | 1 | 5 (50%) |
5 | Nghề nghiệp | Ngủ rẫy, đi rừng | 2 | 0 | 2 | 0 | 4(40%) |
Dân DCTD | 0 | 0 | 0 | 1 | 1(10%) |
Khác | 4 | 1 | 0 | 0 | 5(50%) |
6 | Thời gian khởi bệnh đến khi nhập viện | 1 ngày | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 |
2 ngày | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 |
3 ngày | 3 | 1 | 1 | 0 | 5 (50%) |
> 3ngày | 3 | 0 | 1 | 1 | 5 (50%) |
7 | Thời gian điều trị | ≤24 h | 6 | 1 | | 1 | 8 (80%) |
>24h | 0 | 0 | 2 | 0 | 2 (20%) |
8 | Số lần XN | 1 lần | 6 | | | | |
2 lần | 0 | | | | |
>2 lần | 0 | | | | |
9 | KSTSR | (+) | 6 (P.f) | 2 (P.f) | 1 (P.f) | 1 (P.f) | 10 (100%) |
(-) | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 |
10 | Nơi TV | BV tỉnh | 3 | 1 | 2 | 1 | 7(70%) |
BV huyện | 2 | 0 | 0 | 0 | 2 (20%) |
Trên đường | 1 | 0 | 0 | 0 | 1 (10%) |
11 | Thể SRAT | Đa phủ tạng | 1 | 0 | 1 | 0 | 2 (20%) |
Thể não | 5 | 1 | 1 | 1 | 8 (80%) |
Toàn bộ 10 ca TVSR năm 2005 đều nhập viện muộn từ 3 ngày trở lên sau khởi bệnh, do không được điều trị, tự mua thuốc uống hoặc cúng bái đến khi xuất hiện biến chứng mới nhập viện quá khả năng cấp cứu của các tuyến bệnh viện (tỷ lệ tử vong trước 24 giờ chiếm 80%); một số bệnh viện phát hiện bệnh chưa kịp thời, chẩn đoán và điều trị chưa tích cực; 70%-80% SRAT thể não tử vong ở bệnh viện tỉnh.
V. Phân tích những khó khăn về PCSR tại Tây Nguyên hiện nay:
5.1. Khó khăn về thay đổi mô hình tổ chức hoạt động:
- Theo chủ trương của Bộ Y tế, mô hình hoạt động của hệ thống y tế huyện sẽ gồm: Phòng Y tế huyện, Trung tâm Y tế dự phòng huyện và Bệnh viện huyện; nên giai đoạn đầu còn nhiều khó khăn về đội ngũ cán bộ cán bộ,trang thiết bị, phương tiện và cơ sở làm việc nên nếu khống có sự phối hợp đồng bộ sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động PCSR.
- Một khó khăn khác cho hệ sự phòng là số Bác sĩ hiện cộng tác tại các xã được điều chuyển về huyện nhận nhiệm vụ mới (vì trước đây BS trực thuộc biên chế trung tâm tăng cường), như vậy hệ thống y tế xã đã thiếu nay càng thiếu và yếu.
 | |
Lãnh đạo Viện làm việc với Lãnh đạo Sở Y tế vàTTPCSR/
| TTYTDP các tỉnh Tây Nguyên giám sát hoạt động PCSR |
5.2. Sự tập trung nhân công tại các công trình kinh tế, giao thông:
Hiện nay do nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội, nhiều công trình quốc gia đang triển khai tại nhiều khu vực có sốt rét lưu hành như công trình thuỷ điện tại các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Dak Lak, Dak Nông...., đường giao thông Hồ Chí Minh, đường Đông Trường Sơn. Để thực hiện các công trình này cần số lượng công nhân và phục vụ rất lớn từ các vùng đồng bằng và khu vực khác, tình trạng này làm tăng tính phức tạp của tình hình sốt rét; dịch sốt rét có nguy cơ xảy ra nếu không có biện pháp quản lý và dự phòng kịp thời.
+ Tại Dak Nông: Kết quả khảo sát thực địa tại công trình thủy điện Đồng Nai 3, thuộc xã Quảng Khê, huyện Dak Glong cho thấy:
- Tổng công ty xây dựng thủy lợi 4 làm chủ thầu với 6 đơn vị thi công khác tham gia, lực lượng lao động phổ thông được tuyển dụng đến làm việc tại khu vực này hiện tại khoảng 700-800 công nhân, nhưng sắp đến lên tới 3000-4000 công nhân; với số lượng đông như vậy nhưng công nhân chỉ ở tại các lán trại đơn giản, gần rừng, việc nhiễm bệnh và nguy cơ xảy dịch là rất cao.
-Hệ thống y tế để lo cho công nhân là chưa có, hiện tại dựa vào Trạm y tế xã Quảng Khê đóng rất xa khu vực thủy điện nên việc chăm sóc công nhân không thể đảm bảo được.
+ Tại Dak Lak: Có 12 huyện đang triển khai công trình thủy điện hoặc thủy lợi, mỗi công trình có 200 công nhân; riêng tại huyện Krong Ana có đến 2000 công nhân, việc bảo vệ PCSR cho các công nhân này chưa được chú ý
+ Tại Gia Lai, Kon Tum: Công trình thủy điện Sê San nằm ranh giới giữa Gia Lai và Kon Tum, vừa qua đã có 01 trường hợp tử vong là công nhân của công trình thủy điện này.
5.3. Ký sinh trùng sốt rét:
Qua quá trình phòng chống sốt rét cho đến nay, mặc dù tỷ lệ mắc và TVSR giảm nhưng P.falciparum vẫn là loài chiếm chủ yếu,năm 2005 tỷ lệ P.falciparum ở các tỉnh Tây Nguyên rất cao 87,53% đến 91,67%, chứng tỏ biện pháp vẫn còn hạn chế chưa khống chế được nguy cơ của P.falciparum. Đặc biệt các nghiên cứu tại MT-TN đã chứng minh P.falciparum kháng cao với nhiều loại thuốc như chloroquine, fansidar, mefloquine....
Ngoài ra, tỷ lệ ký sinh trùng lạnh trong cộng đồng chỉ có thể phát hiện qua điều tra chủ động, vì vậy mầm bệnh trong cộng đồng vẫn tồn tại; khi có điều kiện thuận lợi nguy cơ gia tăng sốt rét rất dễ xảy ra.
5.4. Côn trùng sốt rét:
Điều tra dịch tễ tại các điểm cố định và các đợt giám sát thấy đặc điểm tự nhiên và khí hậu tại Tây Nguyên rất thuận lợi cho muỗi sốt rét lan truyền và phát triển, các vector chính như An.minimus, An.dirus vẫn hiện diện; trong khi đó mầm bệnh (P.falciparum, P.vivax)vẫn tồn tại ở hầu hết các vùng, các biện pháp can thiệp khó đảm bảo hiệu quả bảo vệ tuyệt đối cho các cộng đồng sống tại khu vực này.
An.minimus và An.dirus còn nhạy cảm với ICON và Fendona, một số nơi An.vagus kháng với ICON và Fendona, An.maculatus và An.aconitus tăng sức chịu đựng, nhiều nơi hiệu lực tồn lưu của hoá chất chỉ 3 tháng; nguyên nhân do kỹ thuật phun tẩm chưa đạt yêu cầu, tỷ lệ giặt màn sau tẩm vẫn còn cao.
5.5. Thực trạng về dân ngủ rẫy và di cư tự do tại Tây Nguyên:
Đây là một trong những khó khăn mà công tác PCSR đang phải tìm các giải pháp hiệu quả, nhiều cộng đồng người dân tộc các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Dak Lak, Dak Nông vẫn còn thói quen nghề nghiệp làm nương rẫy, làm nhà rẫy và ngủ lại đó trong thời gian mùa vụ; một số lớn người dân do nhiều kho khăn khác nhau nên đi vào rừng khai thác lâm thổ sản, chặt cây, tìm vàng... Những hoạt động này làm gia tăng tỷ lệ nhiễm, bởi vì hiệu quả bảo vệ bằng các biện pháp cho đối tượng này rất khó khăn do phun tồn lưu hoá chất tại nhà nhưng họ không ở mà đi ngủ trong rẫy và trong rừng; thói quen không ngủ màn tại nhà rẫy càng làm tăng thêm nguy cơ nhiễm bệnh; khi bị sốt rét ác tính vận chuyển và cấp cứu rất khó khăn nên nguy cơ tử vong là rất cao.
a. Nguy cơ gia tăng sốt rét ở dân ngủ rẫy: Ngủ rẫy là thói quen canh tác phổ biến hiện nay của đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Nguyên và các huyện miền núi Trung Bộ trong các dịp mùa vụ, trong mùa rẫy đồng bào thường kéo cả nhà lên chòi rẫy chỉ được làm tạm bợ để tiện việc làm ăn hoặc thu hoạch trong thời gian từ một tuần đến một tháng, nên khả năng nhiễm bệnh cao. Vấn đề bảo vệ cho dân ngủ rẫy hết sức khó khăn bởi các biện pháp phun hóa chất diệt muỗi chỉ thực hiện được cho nhà ở cố định trong làng, biện pháp tẩm màn cũng không phù hợp vì diện tích nhà rẫy quá nhỏ cho không thể treo màn, biện pháp quản lý điều trị cũng rất khó thực hiện vì nhà rẫy rải rác khắp nơi trong rừng sâu nên số mắc và số tử vong sốt rét ở dân ngủ rẫy chiếm tỷ lệ cao.
Bảng 8: Kết quả điều tra tại một số cộng đồng ngủ rẫy tại Tây Nguyên
TT | Điểm theo dõi | Thời điểm | Tỷ lệ KSTSR | Vectơ | Cộng đồng dân |
1 | Dak Rin (Kon Tum) | 29/7/03 | 6,80 | An.minimus | Đồng bào ít người, ngủ rẫy |
2 | Ngọc Lây (Kon Tum) | 25/8/03 | 18,24 | An.minimus | Đồng bào ít người, ngủ rẫy |
5/9/03 | 8,85 | An.minimus | Đồng bào ít người, ngủ rẫy |
3 | I-a O ( Gia Lai) | 24/9/03 | 7,08 | An.minimus | Đồng bào ít người, ngủ rẫy |
b. Nguy cơ gia tăng sốt rét ở cộng đồng dân di cư tự do (DCTD) có điều kiện kinh tế khó khăn từ phía Bắc (nơi có SRLH thấp) vào Tây Nguyên (nơi có SRLH cao), do di cư tại vùng núi rừng có mầm bệnh và các vectơ chính .
c. Vấn đề giảm tỷ lệ mắc và tử vong do sốt rét ở đối tượng này vẫn còn quá nhiều thách thức và khó khăn, cộng đồng DCTD lại sống trong vùng rừng sâu để lẩn tránh sự kiểm soát của chính quyền, ở những vùng này lại có sự lan truyền sốt rét rất cao, giao thông không thuận tiện, khó tiếp cận với hệ thống y tế; vì vậy nhiễm sốt rét có nguy cơ gia tăng:
Bảng 9: Nhiễm sốt rét và côn trùng truyền bệnh tại một số cộng đồng dân DCTD
TT | Điểm theo dõi | Thời điểm | Tỷ lệ KSTSR | Vectơ | Cộng đồng dân |
1 | Dak Măng-Dak Nông | 5/2003 | 9,75 | An.minimus | H Mông |
2 | Dak Măng-Dak Nông | 6/2004 | 5,50 | An.minimus | H Mông |
3 | Dak Măng-Dak Nông | 12/2005 | 6,75 | An.minimus | H Mông |
4 | Quảng Sơn-Dak Nông | 12/2005 | 7.12 | An.minimus | H Mông, Mường |
5 | DakRu-Dak Nông | 6/2004 | 2,45 | An.minimus | H Mông |
6 | Cư Róa-M drak-Dak lak | 10/2005 | 8,66 | An.minimus | H Mông |
7 | Ea Trang- M drak-Dak lak | 10/2005 | 7,00 | | H Mông |
8 | Krông á- M drak-Dak lak | 10/2005 | 5,33 | | H Mông |
9 | Eapan-Eakar-Dak lak | 11/2005 | 5,00 | | Thái, Tày, Nùng |
10 | Ea Ô Eakar-Dak lak | 11/2005 | 8,33 | An.minimus | Mường, Dao |
11 | Ea Sô Eakar-Dak lak | 11/2005 | 7,33 | An.minimus | Tày, Nùng |
Kết quả điều tra tại một số cộng đồng dân DCTD cho thấy tỷ lệ nhiễm KSTSR cao so với tỷ lệ chung của khu vực và cộng đồng dân bản địa đã sinh sống lâu tại cùng địa điểm.
5.6. Khó khăn trong công tác điều trị ban đầu SRAT tại xã
Hiện nay các tuyến y tế thuộc chương trình quốc gia PCSR đã thực hiện phác đồ điều trị mới do Bô Y tế ban hành theo quyết định số 2446/2003/QĐ-BYT ngày 27/6/2003). Trong quy định này, tuyến xã có thể sử dụng thuốc tiêm arrtesunate để cấp cứu ban đầu cho bệnh nhân bị sốt rét nặng và ác tính, sau đó chuyển lên tuyến trên.
Nhưng hiện nay, Bộ Y tế vừa ban hành quyết định không cho phép tuyến xã sử dụng các loại thuốc tiêm nên tuyến cấp cứu ban đầu sẽ gặp khó khăn trong việc hạn chế số SRAT, trong khi đó năm 2005 SRAT Tây Nguyên và khu vực có xu hướng gia tăng.
| |
Công trình thủy điện Đồng Nai III, thuộc xã Quảng Khê, huyện Dak Glong- Đăk Nông | Sinh cảnh rừng núi rất thích hợp cho các loài muỗi trú ngụ và phát triển |
VI.Kết luận và đề nghị
6.1. Tình hình sốt rét tại tỉnh Tây Nguyên năm 2005
- Tình hình sốt rét các tỉnh Tây Nguyên giảm từ 2001-2005; nhưng 2005, BNSR tăng 2,61% ở Kon Tum, số SRAT tăng do cơ cấu P.falciparum vẫn còn cao, do thuốc tiêm artesunate để cấp cứu ban đầu cho tuyến xã bị hạn chế sử dụng.
- TVSR tỉnh Gia Lai tăng 1 trường hợp TVSR tại công trình thủy điện Sê San do chưa có hệ thống y tế phòng chống sốt rét.
- Nguy cơ lan truyền vẫn còn (mầm bệnh vẫn tiềm ẩn trong cộng đồng, nhiều điểm điều tra có tỷ lệ KSTSR cao, các vectơ chính An.minimus và An.dirus vẫn thường xuyên có mặt, đặc biệt tại các vùng có dân di cư tự do và ngủ rẫy).
6.2.Nguyên nhân tăng sốt rét ở Kon Tum và TVSR ở các tỉnh Tây Nguyên:
- Năm 2005 sự gia tăng BNSRở tỉnh Kon Tum so với cùng kỳ chỉ ở mức 2,61%, từ 3.262 (2004) lên 3.347 (2005), nguyên nhân do gia tăng hoạt động ngủ rẫy của đồng bào, ngoài ra đúng vào chu kỳ người dân đi lấy quả ươi (2-3 năm 1 lần) nên gia tăng số người đi rừng và ngủ lại trong rừng thêm vào đó là thời tiết thất thường.
- Nguyên nhân TV do nhập viện quá muộn trên 3 ngày, cúng bái trước khi nhập viện. TVSR ở đối tượng dân di cư tự do và ngủ rẫy chiếm 50% TVSR, chất lượng chẩn đoán và điều trị sốt rét ở một số tuyến chưa tốt, màng lưới y tế cơ sở chưa kiểm soát được bệnh nhân sốt rét.
6. 3. Các giải pháp ưu tiên trong năm 2006:
6.3.1. Giám sát vùng trọng điểm:
- Tập trung các hoạt động PCSR vào các vùng trọng điểm, vùng có dân di cư tự do, đi rừng ngủ rẫy.
- Lập kế hoạch phối hợp các vùng trọng điểm kinh tế, vùng có công trình thủy điện, thủy lợi bảo vệ cho nhân dân và công nhân khỏi nhiễm bệnh sốt rét,chú trọng phát hiện và quản lý ký sinh trùng tại cộng đồng.
6.3.2. Nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị:
- TTPCSR và Bệnh viện tỉnh phối hợpgiám sát chất lượng chẩn đoán và điều trị tại các tuyến, cần điền vào mẫu Phiếu theo dõi toàn bộ các trường hợp SRAT hoặc TVSR và chuyển gấp cho Viện để kịp thời xử lý.
- Tổ chức các buổi thảo luận chuyên đề về các ca tử vong sốt rét tại từng tuyến để rút kinh nghiệm cho công tác chẩn đoán và điều trị.
6.3.3.Về phòng chống vectơ
- Nâng cao chất lượng phun tẩm, lập kế hoạch chi tiết đúng thời gian, nhân lực để triển khai chiến dịch đợt I /2006 có hiệu quả.
- Lập kế hoạch phòng chống muỗi đốt cho các vùng trọng điểm kinh tế, quốc phòng, vùng thủy điện thủy lợi.
- Quản lý hóa chất, vật tư đúng quy định tránh thất thoát lãng phí.
6.4.5. Phát huy vai trò Y tế xã và YTTB:
- Y tế xã và nhân viên y tế thôn bản tăng cường phát hiện và điều trị bệnh tại các cụm dân cư xa trạm y tế, đặc biệt quản lý các đối tượng đi rừng và ngủ rẫy. Cần tăng cường biện pháp tự điều trị với các trường hợp làm ăn xa cơ sở y tế để hạn chế khả năng biến chứng do sốt rét.
-Thay thế các kính hiển vi hư hỏng, phát huy vai trò điểm kính hiển vi xã trong phát hiện KSTSR để phục vụ cho việc điều trị tích cực BNSR.
6.4.6. Về chính sách thuốc:
Cần có chính sách thuốc phù hợp với những vùng sốt rét lưu hành, có nhiều trường hợp SRAT, đặc biệt cho phép tuyến xã sử dụng thuốc tiêm arrtesunate để cấp cứu ban đầu trước khi chuyển bệnh lên tuyến trên. Các quy định thuốc cần phù hợp với Chương trình quốc gia PCSR.