Theo thống kê báo cáo của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn, hàng năm các trường hợp mắc sốt rét do nhiễm ký sinh trùng Plasmodium malariae được phát hiện chủ yếu tại tỉnh Khánh Hòa; những địa phương khác ít thấy xuất hiện. Từ năm 2010 đến quý I/2013 ghi nhận có 46 bệnh nhân sốt rét nhiễm Plasmodium malariae, trong đó có 45 trường hợp ở tỉnh Khánh Hòa và 1 trường hợp ở tỉnh Đăk Nông. Vậy loại ký sinh trùng này có những đặc điểm như thế nào?
Ký sinh trùng gây bệnh sốt rét cho người có 4 loại là Plasmodium falciparum, Plasmodium vivax, Plasmodium malariae và Plasmodium ovale. Tại nước ta, hai loại thường gây bệnh phổ biến là Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax. Riêng loại ký sinh trùng Plasmodium malariae phát hiện chủ yếu tại tỉnh Khánh Hòa, mặc dù chúng không gây nên bệnh cảnh lâm sàng nặng và tử vong nhưng có những đặc điểm cần quan tâm trong chẩn đoán, điều trị, theo dõi và khả năng chuyển dịch đến địa phương khác.
Đặc điểm sốt rét Plasmodium malariae
Plasmodium malariae là loại ký sinh trùng sốt rét gây bệnh với chu kỳ cơn sốt 4 ngày, có nghĩa là ngày thứ nhất bị sốt, ngày thứ hai và thứ ba không sốt, qua ngày thứ tư bị sốt trở lại và cứ thế tiếp tục theo cơn sốt có chu kỳ. Ký sinh trùng sốt rét có đặc điểm hình thái khác hẳn với các loại khác, chúng phát triển chậm trong cơ thể của cả hai vật chủ là muỗi truyền bệnh và người. Bệnh thường có diễn biến lâm sàng nhẹ nhưng tồn tại khá dai dẳng trong cơ thể người bệnh. Plasmodium malariae có phân bố về địa lý khá rộng ở cả hai khu vực ôn đới và bán nhiệt đới, chủ yếu khu trú tại vùng Tây và Đông châu Phi, Guyana, một số điểm ở Ấn Độ và sự hiện diện của chúng mang tính chất rải rác. Tỉnh Khánh Hòa của nước ta cũng có thể mang tính chất đặc thù này.
Gần đây, thể phân liệt ngoại hồng cầu ở gan của ký sinh trùng sốt rét Plasmodium malariae của người chỉ mới được các nhà khoa học chứng minh qua nghiên cứu thực nghiệm trên loại tinh tinh ở châu Phi thuộc loài linh trưởng bằng đường gây nhiễm với thoa trùng của ký sinh trùng. Các nhà nghiên cứu đã nghi ngờ rằng con tinh tinh có thể là ổ dự trữ ký sinh trùng sốt rét Plasmodium malariae và có khả năng nhiễm tự nhiên. Ngoài ra, một loại ký sinh trùng sốt rét có tên khoa học là Plasmodium rodhaini thường phát hiện được ở loài thú này có khả năng đồng nghĩa với Plasmodium malariae. Thể phân liệt ngoại hồng cầu ở trong gan của loại ký sinh trùng này có thời gian phát triển khoảng 14 ngày sau khi bị nhiễm thoa trùng. Các merozoites ở gan sau đó sẽ xâm nhập vào máu và bắt đầu chu kỳ phát triển vô tính của ký sinh trùng trong hồng cầu với 72 giờ.
Một điều cần lưu ý là khi mắc bệnh sốt rét do nhiễm Plasmodium malariae, ký sinh trùng có đặc điểm tồn tại dai dẳng trong cơ thể người nhiều năm hoặc suốt cả đời người. Chính vì hiện tượng này nên các nhà khoa học đã đưa ra giả thuyết là có sự liên tiếp xảy ra các chu kỳ ngoại hồng cầu thứ phát ở gan. Tuy nhiên qua nghiên cứu thực nghiệm đã không phát hiện được các thể ký sinh trùng tái phát muộn ở trong gan của loài tinh tinh ở châu Phi được gây nhiễm với loại ký sinh trùng Plasmodium malariae; bệnh sốt rét bị nhiễm có khả năng kéo dài dai dẳng dù được gây nhiễm bằng máu có ký sinh trùng hoặc bằng thoa trùng lấy từ muỗi. Thực trạng này đã xác nhận không thể có sự hiện hữu của các thể ngủ (hypnozoite) của ký sinh trùng nguyên thủy ở tại gan để gây nên hiện tượng tái phát muộn khi bị sốt rét do nhiễm Plasmodium malariae. Sự tái xuất hiện ký sinh trùng trong máu với các triệu chứng lâm sàng sau một thời gian im lặng khá dài được các nhà khoa học phỏng đoán do sự quay trở lại của các thể vô tính trong hồng cầu từ ký sinh trùng bị nhiễm của đợt sốt sơ phát còn tồn tại lại một số rất ít với khả năng chúng có thể lẩn trốn ở đâu đó trong các cơ quan nội tạng. Về đặc điểm hình thể, các thể tư dưỡng trẻ trong máu của loại ký sinh trùng Plasmodium malariae không khác nhiều so với loại ký sinh trùng Plasmodium vivax tuy rằng bào tương có dày hơn và bắt màu đậm hơn. Những thể tư dưỡng già rất lớn, hình tròn và chiếm khoảng một nửa hồng cầu. Trong lam máu giọt mỏng, thể tư dưỡng có thể vắt ngang qua hồng cầu giống như một dải băng; đây là một nét đặc trưng về hình thể của ký sinh trùng Plasmodium malariae để phân biệt với các chủng loại ký sinh trùng khác. Ngoài ra, hạt sắc tố của ký sinh trùng cũng lớn, nhiều và có màu đen.
Ký sinh trùng sốt rét Plasmodium malariae có sự phát triển hoàn chỉnh thể tư dưỡng (trophozoite) kéo dài khoảng 54 giờ và chuyển sang thể phân liệt (schizont) trong suốt 18 giờ sau đó với tổng thời gian là 72 giờ. Thể phân liệt trưởng thành còn gọi là thể phân cách (merozoite) có trung bình 8 nhân. Sự sắp xếp các thể phân cách này ở trong hồng cầu giống hình hoa cúc hoặc hình hoa thị. Hồng cầu bị ký sinh trùng ký sinh không bị thay đổi nhiều, đôi khi trông nhỏ hơn hồng cầu bình thường và xuất hiện các hạt bệnh lý màu hồng nhạt gọi là hạt Ziemann. Mật độ ký sinh trùng Plasmodium malariae thường thấp hơn so với các chủng loại ký sinh trùng khác với khoảng 10.000 ký sinh trùng/mm3 máu. Thể giao bào của ký sinh trùng chủ yếu phát triển trong cơ quan nội tạng, chỉ xuất hiện ở máu ngoại vi khi đã trưởng thành. Giao bào cái có bào tương bắt màu xanh đậm và có một nhân nhỏ; giao bào đực có bào tương màu xanh nhạt và một nhân xốp. Chu kỳ phát triển vô tính trong hồng cầu của ký sinh trùng kéo dài khoảng 72 giờ và sự phát triển này rất đồng bộ. Chu kỳ phát triển hữu tính của ký sinh trùng trong cơ thể muỗi truyền bệnh kéo dài khoảng từ 30 đến 35 ngày ở nhiệt độ 20oC hoặc 14 ngày ở nhiệt độ 28oC. Sắc tố noãn bào của ký sinh trùng có hạt lớn và màu đen nâu, thường nằm rải rác ở phần rìa.
Diễn biến triệu chứng lâm sàng
Sốt rét do nhiễm Plasmodium malariae có thời gian ủ bệnh tương đối dài, không bao giờ dưới 18 ngày và có thể lên đến 1 tháng rưởi. Bệnh khởi phát rất giống với các trường hợp sốt rét do bị nhiễm loại ký sinh trùng Plasmodium vivax. Cơn sốt thường rải đều đặn với chu kỳ cách 2 ngày không sốt, đến ngày thứ 3 thì bị sốt trở lại. Con sốt thường bắt đầu vào cuối buổi chiều, triệu chứng thiếu máu ít hơn so với sốt rét do nhiễm Plasmodium vivax. Bệnh sốt rét do nhiễm Plasmodium malariae có thể gây ra một vài biến chứng ở thận, tuy vậy nhưng chúng vẫn được xem là sốt rét lành tính. Nhiều nhà khoa học đã nhận định rằng ở bệnh nhân sốt rét do nhiễm Plasmodium malariae thường có lách sưng rất to.Vấn đề khác hiện nay chưa được nghiên cứu xác định một cách rõ ràng là tại sao sốt rét do nhiễm Plasmodium malariae có thể gây sốt tái phát xa sau hàng chục năm. Một số nhà khoa học đã đặt vấn đề phải chăng có thể có những cơ quan nào đó khác ngoài gan là nơi làm ổ chứa cho loại ký sinh trùng này ký sinh sống tiềm tàng đến mức quá lâu như vậy.
Về điều trị, theo hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét do Bộ Y tế ban hành vào năm 2009; sốt rét do nhiễm loại ký sinh trùng Plasmodium malariae được chỉ định điều trị bằng thuốc chloroquin đơn thuần như trường hợp nhiễm Plasmodium vivax nhưng không cần phối hợp với thuốc primaquin 14 ngày vì loại ký sinh trùng này đã được các nhà khoa học xác định không có thể ngủ (hypnozoit) ở gan như loại Plasmodium vivax gây tái phát xa. Nguyên nhân của vấn đề tái phát xa do nhiễm loại Plasmodium malariae hoặc giả thuyết ký sinh trùng tiềm ẩn lâu trong cơ thể người bệnh gây tái phát đang được các nhà khoa học nghiên cứu và công bố trong một thời gian gần đây.
Nghiên cứu sốt rét Plasmodium malariae tại Khánh Hòa
Tại nước ta, sốt rét do nhiễm ký sinh trùng Plasmodium malariae chủ yếu chỉ tập trung tại tỉnh Khánh Hòa, các địa phương khác trong cả nước chưa phát hiện được loại ký sinh trùng này ngoài 1 trường hợp ghi nhận ở tỉnh Đăk Nông . Vấn đề khu trú mang tính cách đặc thù này cần được các nhà khoa học ở trong nước và các chuyên gia ở nước ngoài nghiên cứu; đồng thời xem xét khả năng loại ký sinh trùng này có khả năng lây truyền đến các địa phương khác qua trung gian của muỗi truyền bệnh ở trong nước không. Mặc dù đây là loại ký sinh trùng sốt rét gây bệnh lành tính nhưng khả năng gây tái phát xa, mầm bệnh ký sinh tiềm tàng trong cơ thể một thời gian dài cũng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Tỉnh Phú Yên gần tỉnh Khánh Hòa là địa phương đầu tiên phát hiện ký sinh trùng sốt rét Plasmodium inui halberstaedter and von Prowazek, 1907 ở loài khỉ đuôi dài Macaca fascicularis, loại ký sinh trùng này có khả năng truyền bệnh cho người hay không, có mối liên quan nào giữa loại ký sinh trùng sốt rét Plasmodium malariae gây bệnh ở người với loài khỉ đuôi dài ở đây tương tự như loại ký sinh trùng sốt rét có tên khoa học là Plasmodium rodhaini thường phát hiện được ở loài thú tinh tinh ở châu Phi thuộc loài linh trưởng đã được các nhà khoa học nghiên cứu trước đó và cho rằng chúng có khả năng đồng nghĩa với Plasmodium malariae... Những vấn đề đang còn tiềm ẩn, chưa có lời giải đang chờ các nhà khoa học chuyên ngành có quan tâm nghiên cứu giải đáp trong thời gian tới.