Thực tế trên lâm sàng, khi người bị mắc bệnh sốt rét, trong cơ thể được hình thành tính miễn dịch đối với bệnh. Miễn dịch sốt rét sẽ có lợi cho bệnh nhân khi tái nhiễm bệnh nhờ sự chống đỡ của hệ thống miễn dịch được tạo nên. Điều này đã chứng minh người có miễn dịch đối với sốt rét khi tái nhiễm bệnh, bệnh cảnh lâm sàng thường xảy ra nhẹ hơn hoặc không biểu hiện triệu chứng so với những người bị sốt rét sơ nhiễm.
Đặc điểm bảo vệ khi có miễn dịch
Cơ thể con người có khả năng hình thành các cơ chế bảo vệ chống lại sự xâm nhập của ký sinh trùng sốt rét khi đã có tính miễn dịch. Bên cạnh đó, ký sinh trùng sốt rét cũng tìm mọi cách phòng và tránh thoát hệ thống bảo vệ để xâm nhập vào tế bào. Vì vậy, quá trình hoạt động của hệ thống miễn dịch rất phức tạp. Miễn dịch sốt rét có thể xác định là khả năng chống lại sự nhiễm bệnh bằng cách hủy diệt ký sinh trùng sốt rét hoặc ức chế sự phát triển của ký sinh trùng. Ngoài ra, chúng cũng có tác dụng làm biến đổi hiệu quả khả năng xâm nhập của ký sinh trùng sốt rét vào tế bào và giúp cho qua trình hồi phục các tổ chức bị tổn thương. Để thực hiện được khả năng này, cơ thể con người đã có hai loại đáp ứng miễn dịch là miễn dịch tự nhiên và miễn dịch thu được. Các nhà khoa học đã nghiên cứu đầy đủ khả năng đáp ứng miễn dịch của cơ thể con người và những đặc điểm của ký sinh trùng sốt rét xâm nhập vào người để gây bệnh nhằm giúp cho công tác chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh sốt rét có hiệu quả tốt hơn.
Đáp ứng miễn dịch
Sự đáp ứng miễn dịch của con người đối với ký sinh trùng sốt rét sẽ tạo nên miễn dịch tự nhiên và miễn dịch thu được. Trong miễn dịch thu được, có loại miễn dịch không đặc hiệu và loại miễn dịch đặc hiệu.
Miễn dịch tự nhiên
Miễn dịch tự nhiên là loại miễn dịch tự hình thành trong cơ thể khi trên thực tế tất cả những người chưa bị mắc bệnh sốt rét đều có khả năng cảm thụ với bệnh. Tuy vậy vẫn có một số nhóm dân cư có miễn dịch tự nhiên hoàn toàn hay một phần đối với những chủng loại ký sinh trùng sốt rét. Ở những vùng sốt rét lưu hành, trẻ sơ sinh có miễn dịch thụ động tự nhiên nhận được từ mẹ nên không bị bệnh sốt rét trong khoảng 3 tháng đầu sau khi sinh ra. Miễn dịch thụ động ở trẻ sơ sinh do kháng thể IgG được truyền từ mẹ qua nhau thai và chỉ có IgG duy nhất được truyền qua nhau thai. (Ig là chữ viết tắt của immunoglobulin, gọi là kháng thể). Tuy vậy, khi điều tra một số trẻ sơ sinh ở Senegan, ngoài kháng thể IgG còn thấy cả kháng thể IgM, thậm chí nồng độ của kháng thể IgM còn cao hơn ở cả người mẹ. Các nhà khoa học cho rằng sự đáp ứng lại kích thích của kháng nguyên ký sinh trùng sốt rét do thai nhi có khả năng sản xuất được kháng thể đặc hiệu. Người da đen ở châu Phi có miễn dịch tự nhiên đối với chủng loại ký sinh trùng Plasmodium vivax và miễn dịch này có khả năng di truyền cho thế hệ sau. Một số nhóm người da đen trên thế giới thiếu kháng nguyên máu nhóm Duffi loại Fya hay Fyb , kháng nguyên này là những tiếp thụ của ký sinh trùng sốt rét Plasmodium vivax và là yếu tố cần thiết để ký sinh trùng sốt rét gắn vào hồng cầu. Những người mang huyết cầu tố hemoglobin S (HbS) với hồng cầu dị dạng hình lưỡi liềm có sức đề kháng với chủng loại ký sinh trùng Plasmodium falciparum. Vì vậy mặc dù chưa có miễn dịch nhưng khi bị nhiễm sốt rét do Plasmodium falciparum thì bệnh diễn biến nhẹ, số lượng ký sinh trùng sốt rét trong máu thấp hơn người bình thường. Khi bệnh nhân đã có miễn dịch sau khi mắc bệnh sốt rét thì không bao giờ bị mắc bệnh lại nữa. Một số nhà khoa học cho rằng ký sinh trùng sốt rét đã thích ứng với cách phân hủy hemoglobin bình thường và không có khả năng đồng hóa các hemoglobin dị thường. Những người mang các hemoglobin bệnh lý khác như HbC, HbE cũng ít mẫn cảm đối với ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum. Những người mắc bệnh huyết cầu tố bào thai (hemoglobin foetal) HbF có tác dụng ức chế sự phát triển của ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax. Những người mắc bệnh Thalassemia là bệnh thiếu máu hủy huyết di truyền, một loại bệnh lý của hemoglobin cũng có miễn dịch tương đối với bệnh sốt rét do nhiễm Plasmodium falciparum và các nhà khoa học đã cho rằng trong hồng cầu của người bệnh Thalassemia thiếu chất sắt là chất cần thiết của ký sinh trùng sốt rét.
Miễn dịch thu được
Miễn dịch thu được bao gồm miễn dịch không đặc hiệu và miễn dịch đặc hiệu. Miễn dịch không đặc hiệu trong bệnh sốt rét được thể hiện với hiện tượng người có khả năng chống lại ký sinh trùng sốt rét bằng phản ứng dịch thể và phản ứng tế bào. Phản ứng dịch thể được hình thành từ vai trò của yếu tố hòa tan đã có sẵn trong máu như lysozyme, bổ thể, kháng thể IgM tự nhiên, TNF (tumor necrosis factor), cytokine, interferon... Chúng có tác dụng ngăn cản chuyển hóa, phát triển, phân chia của ký sinh trùng sốt rét và sự tiến triển của bệnh. Phản ứng tế bào được phát hiện khi tìm thấy ký sinh trùng sốt rét trong đại thực bào của gan và lách ở những bệnh nhân tử vong do sốt rét. Thực bào là một hiện tượng khá phổ biến trong bệnh sốt rét. Những đại thực bào của hệ thống lưới nội mô ở lách, gan, tủy xương... nuốt ký sinh trùng sốt rét, các hạt sắc tố, những mảnh hồng cầu và một số các chất khác. Cùng với sự phát triển miễn dịch sốt rét của người, cường độ thực bào của các đại thực bào cũng tăng lên. Miễn dịch đặc hiệu trong bệnh sốt rét tuy không ngăn cản được sự tái nhiễm nhưng hạn chế rất đáng kể sự phát triển của ký sinh trùng sốt rét. Những người sống trong vùng sốt rét lưu hành đã có miễn dịch đối với bệnh nên khi bị mắc bệnh sốt rét có diễn biến lâm sàng thường nhẹ, số lượng ký sinh trùng sốt rét trong máu thấp, ít khi bị sốt rét ác tính. Nhìn chung, quá trình hoạt động của hệ thống miễn dịch thu được bao gồm các yếu tố như yếu tố dịch thể có các kháng thể, bổ thể, các kháng nguyên hòa tan, các dịch thể khác; yếu tố các tế bào lympho, đại thực bào, bạch cầu; yếu tố các kháng nguyên ký sinh trùng sốt rét có kháng nguyên bảo vệ của thoa trùng, các kháng nguyên thể ngoại hồng cầu, các kháng nguyên giao bào, các kháng nguyên thể hồng cầu. Đáp ứng của miễn dịch thu được có hai đặc điểm chủ yếu là sự ghi nhớ và tính đặc hiệu. Sự tiếp xúc lần đầu tiên của cơ thể con người với ký sinh trùng sốt rét sẽ được ghi lại những thông tin về kháng nguyên trên toàn bộ hệ thống bảo vệ. Đáp ứng miễn dịch lần thứ hai do kết quả ghi nhớ của hệ thống miễn dịch lần đầu. Khi ký sinh trùng sốt rét xâm nhập và ký sinh, cơ thể con người sẽ xuất hiện những khả năng bảo vệ chống lại ký sinh trùng như tạo kháng thể kháng thoa trùng nhằm ngăn cản sự xâm nhập của thoa trùng vào tế bào gan; interferon và cytokine cũng có thể ức chế ký sinh trùng xâm nhập vào tế bào gan; độc tố của tế bào lympho có thể làm hỏng tế bào bị nhiễm ký sinh trùng; kháng thể kháng giai đoạn ký sinh trùng ký sinh trùng sốt rét phát triển ở hồng cầu có thể ức chế sự xâm nhập của ký sinh trùng vào hồng cầu; kháng thể kháng với kháng nguyên hòa tan của ký sinh trùng cũng có thể cản trở ký sinh trùng xâm nhập vào hồng cầu; các chất tiết của tế bào lympho có khả năng phá hủy hồng cầu bị nhiễm. Như vậy đáp ứng miễn dịch thu được phụ thuộc vào đáp ứng miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào thông qua sự xuất hiện của kháng nguyên của ký sinh trùng sốt rét.
Tóm lại, miễn dịch tự nhiên và miễn dịch thu được khi bệnh nhân bị mắc bệnh sốt rét sẽ có lợi cho người bệnh khi bị tái nhiễm bệnh do cơ thể đã có khả năng bảo vệ sự xâm nhập của ký sinh trùng, bệnh cảnh lâm sàng sẽ xảy ra nhẹ hơn và ít khi chuyển thành sốt rét ác tính gây tử vong.