Tại các vùng sốt rét lưu hành, trẻ em là đối tượng có nguy cơ dễ bị mắc bệnh sốt rét. Khi bị mắc bệnh cũng thường có nguy cơ chuyển thành sốt rét ác tính gây hậu quả tử vong. Vì vậy cần quan tâm đến vấn đề này để chủ động phòng ngừa nhằm hạn chế tử vong cho trẻ.
Đặc điểm bệnh sốt rét ở trẻ em
Trẻ nhỏ từ 3 đến 6 tháng tuổi còn bú mẹ thường ít khi bị mắc bệnh sốt rét và ít bị tử vong do sốt rét vì cơ thể còn huyết cầu tố F (foetus), còn có kháng thể được thụ hưởng từ người mẹ và do đang bú mẹ nên thiếu chất PABA (para amino benzoic acid), vì vậy ký sinh trùng sốt rét không tổng hợp được acid folic.
Trẻ em từ 6 tháng tuổi trở lên sống tại vùng sốt rét lưu hành có tỷ lệ mắc bệnh sốt rét và tử vong do sốt rét thường cao hơn người lớn, cao nhất là từ 4 đến 5 tuổi.
Trẻ em từ 1 đến 4 tuổi khi bị mắc bệnh sốt rét thường gặp cơn co giật khi có sốt cao, triệu chứng rối loạn tiêu hóa xảy ra khá phổ biến như nôn mửa, tiêu chảy, đau bụng, bụng đầy hơi. Ngoài ra có dấu hiệu thiếu máu nhanh, lách sớm dễ bị sưng to; tình trạng rối loạn dinh dưỡng phát triển nhanh. Chu kỳ cơn sốt thường xảy ra không đều đặn, đôi khi không có giai đoạn rét run. Đường huyết bị suy giảm nhưng hiếm gặp các biến chứng nặng ở gan như có chỉ số bilirubin và men SGOT/SGPT tăng cao hoặc biến chứng nặng ở thận như suy thận cấp thực thể. Tuy vậy, trẻ thường hay bị ho và viêm khí quản, phế quản. Tỷ lệ chuyển từ sốt rét sang sốt rét ác tính thể não thấp hơn so với người lớn.
Nhận biết sốt rét ác tính ở trẻ em
Mặc dù tỷ lệ chuyển đổi sốt rét thành sốt rét ác tính ở trẻ em chiếm khoảng 10% thường không cao hơn người lớn nhưng tỷ lệ bị sốt rét ác tính trên tổng số trẻ mắc sốt rét và số tử vong do sốt rét chiếm tỷ lệ từ 15 đến 30% thường cao hơn so với người lớn. Trong một số quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, số tử vong do sốt rét ác tính ở trẻ em thường chiếm phần lớn các trường hợp tử vong vì sốt rét ác tính.
Sốt rét ác tính ở trẻ em có những đặc điểm khác biệt so với sốt rét ác tính ở người lớn như bệnh cảnh lâm sàng thường chuyển thành nặng hoặc ác tính nhanh sau khoảng từ 1 đến 2 ngày. Trẻ bị co giật nhiều, thiếu máu trầm trọng, thường có phản xạ thân não bệnh lý như phản xạ mắt-cổ; di chứng thần kinh xảy ra khoảng trên 10% nhiều hơn so với người lớn (dưới 5%); biến chứng hạ đường huyết cũng thường gặp. Trái lại, một số hội chứng tổn thương phủ tạng ở trẻ em như suy thận cấp, vàng da, phù phổi cấp, rối loạn đông máu... ít gặp hơn so với bệnh nhân người lớn.
Sốt rét ác tính ở trẻ em thường hay có triệu chứng nôn mửa kèm theo ho nên làm cho việc chẩn đoán bệnh dễ bị lệch hướng. Đối với một số trường hợp trẻ em có triệu chứng sốt cao, co giật và sau đó khoảng nửa giờ đồng hồ trẻ bị bất tỉnh thì không thể chẩn đoán ngay là sốt rét ác tính mà phải cần khám bệnh kỹ càng hơn, cho xét nghiệm máu để phát hiện ký sinh trùng sốt rét. Sau một cơn co giật, trẻ em đi vào hôn mê ít nhất khoảng 30 phút trở lên mới có giá trị nghi vấn chẩn đoán sốt rét ác tính.
Việc đánh giá mức độ hôn mê ở trẻ em thường khó hơn người lớn, chủ yếu căn cứ vào đáp ứng đau, đáp ứng gọi-hỏi, phản xạ gân xương, phản xạ giác mạc-đồng tử và sự vận động của nhãn cầu... Tất cả các trường hợp hôn mê xuất hiện nhanh ở trẻ em cần phân biệt rõ với cơn hạ đường huyết. Dấu hiệu co giật ở trẻ em bị sốt rét ác tính thể não không phải bất kỳ trường hợp nào gặp cũng là triệu chứng biểu hiện của sốt rét ác tính thể não, có khi đây là cơn co giật của biến chứng hạ đường huyết hoặc là cơn co giật của tình trạng sốt cao; vì vậy cần phân biệt rõ ràng, chính xác để cấp cứu có hiệu quả. Đặc điểm sốt rét ác tính ở trẻ em là cơn co giật thường xuất hiện trong hôn mê nhưng cũng có một số trường hợp xuất hiện trước khi hôn mê. Các trường hợp bị bệnh nặng có triệu chứng tăng trương lục cơ với tư thế duỗi cứng, thậm chí có khi lật ngược dễ nhầm lẫn với bệnh uốn ván, viêm màng não.
Xét nghiệm máu cho trẻ thấy bạch cầu có khi tăng nhưng không nhất thiết xác định do sốt rét ác tính bị bội nhiễm.
Tỷ lệ tử vong của trẻ em bị sốt rét ác tính thường cao gấp từ 2 đến 3 lần so với người lớn và thường bị tử vong trong từ 1 đến 2 ngày đầu. Nếu thoát khỏi được cơn nguy kịch thì thời gian phục hồi cũng thường nhanh hơn, trung bình sau khoảng 30 giờ đồng hồ. Có khoảng 10% di chứng để lại cho trẻ như bị liệt nửa người, rối loạn tiểu não, mù, chậm phát triển tư duy... Tình trạng mất nước ở trẻ em bị sốt rét ác tính phổ biến nhiều hơn so với sốt rét ác tính xảy ra ở người lớn, biểu hiện dấu hiệu môi khô, mắt trũng, sụt cân, khát nước, đi tiểu ít, tỷ trọng nước tiểu cao, natri niệu thấp, chất cặn nước tiểu bình thường, urê huyết trên 6,5 mmol/l phản ánh tình trạng thiếu nước; đây không phải là hội chứng suy thận cấp thực thể vì chúng rất hiếm gặp ở sốt rét ác tính trẻ em.
Tình trạng thiếu máu ở trẻ em bị sốt rét ác tính cũng thường xảy ra trầm trọng hơn người lớn, chủ yếu do mật độ ký sinh trùng sốt rét cao, biểu hiện triệu chứng mạch nhanh, khó thở, gan to, tim có tiếng thổi tâm thu, thậm chí suy tim với tiếng nhịp ngựa phi. Sự thiếu máu nặng sẽ góp phần vào hội chứng não gây nên triệu chứng vật vã, hôn mê.
Biến chứng hạ đường huyết xảy ra khá phổ biến ở trẻ em dưới 3 tuổi bị sốt rét ác tính có liên quan đến mật độ ký sinh trùng sốt rét cao, hôn mê sâu, cơn co giật... Về lâm sàng, có khi khó phát hiện biến chứng hạ đường huyết vì một số dấu hiệu của biểu hiện hạ đường huyết giống như sốt rét ác tính thể não như hôn mê, co giật...
Xử trí điều trị sốt rét ác tính ở trẻ em
Theo hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét đã được Bộ Y tế ban hành, trẻ em bị sốt rét ác tính thường có biểu hiện các triệu chứng chủ yếu như thiếu máu, hôn mê, co giật, hạ đường huyết, toan chuyển hóa. Khi trẻ em bị mắc bệnh sốt rét, nếu không được phát hiện, xử trí điều trị kịp thời sẽ dễ chuyển nhanh sang sốt rét ác tính gây hậu quả tử vong.
Điều trị sốt rét ác tính ở trẻ em bằng thuốc đặc hiệu Artesunate tiêm hoặc Quinine tiêm, liều lượng sử dụng theo lứa tuổi hay theo trọng lượng cơ thể được quy định trong phác đồ điều trị. Việc điều trị triệu chứng và biến chứng cần chú ý đến chống co giật, xử trí hạ đường huyết, xử trí tình trạng thiếu máu; điều chỉnh tình trạng mất nước, rối loạn điện giải, kiềm-toan.