Hiện nay bệnh nhân sốt rét ác tính nói chung và sốt rét ác tính trẻ em đã khống chế với tỷ lệ thấp nên hạn chế được tử vong. Tuy vậy, trong mùa dịch bệnh phát triển, đặc biệt ở vùng sốt rét lưu hành; các cơ sở y tế cần nhận biết sốt rét ác tính ở trẻ em để phân biệt với các bệnh khác nhằm chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời; không chủ quan vì trẻ em rất dễ bị tử vong do sốt rét ác tính.
Sốt rét ác tính ở trẻ em có tỷ lệ chuyển đổi từ sốt rét sang sốt rét ác tính không cao hơn so với người lớn nhưng tỷ lệ sốt rét ác tính trên tổng số trẻ bị mắc bệnh và tỷ lệ tử vong do sốt rét thường cao hơn người lớn. Ở trong một quốc gia, một khu vực hoặc một vùng; số tử vong do sốt rét ác tính ở trẻ em thường chiếm hầu hết các trường hợp tử vong vì sốt rét. Sốt rét ác tính ở trẻ em khác với sốt rét ác tính ở người lớn vì bệnh cảnh lâm sàng chuyển thành sốt rét nặng hoặc sốt rét ác tính rất nhanh chỉ sau từ 1 đến 2 ngày. Bệnh nhân bị co giật nhiều, thiếu máu trầm trọng, thường có phản xạ thân não bệnh lý như phản xạ mắt-cổ; có di chứng thần kinh nhiều hơn; biến chứng hạ đường huyết thường gặp hơn. Trái lại, một số hội chứng tổn thương phủ tạng ít gặp ở sốt rét ác tính trẻ em so với sốt rét ác tính người lớn như suy thận cấp, vàng da, phù phổi cấp, rối loạn đông máu. Đặc điểm sốt rét ác tính ở trẻ em thường có triệu chứng nôn mửa kèm theo ho làm cho việc chẩn đoán bệnh dễ lạc hướng. Một số trường hợp trẻ bị sốt cao, co giật và sau đó thường bất tỉnh khoảng nửa giờ trở lại cần lưu ý không thể chẩn đoán vội vàng ngay là sốt rét ác tính mà phải khám kỹ hơn và xét nghiệm phát hiện ký sinh trùng sốt rét. Sau một cơn co giật, bệnh đi vào hôn mê ít nhất 30 phút trở lên mới có giá trị nghi vấn chẩn đoán sốt rét ác tính. Đánh giá mức độ rối loạn ý thức và hôn mê ở sốt rét ác tính trẻ em thường khó hơn người lớn, chủ yếu căn cứ vào thang điểm Blantyre với các dấu hiệu lâm sàng về cử động mắt, đáp ứng vận động và đáp ứng lời nói. Theo quy định, trẻ em sốt rét ác tính bị rối loạn ý thức khi thang điểm Blantyre dưới 5 điểm và hôn mê khi thang điểm Blantyre bằng hoặc dưới 3 điểm; kết quả xét nghiệm dịch não tủy bình thường. Cần chú ý tất cả các trường hợp hôn mê xuất hiện nhanh ở trẻ em cần phân biệt với cơn hạ đường huyết. Triệu chứng co giật ở trẻ em mắc sốt rét ác tính thể não không phải trường hợp nào cũng là biểu hiện bệnh lý của thể não mà có thể cơn co giật của biến chứng hạ đường huyết hoặc cơn co giật của sốt cao; vì vậy cần phân biệt để xử trí cấp cứu được chính xác. Đặc điểm ở trẻ em bị sốt rét ác tính thể não có cơn co giật thường xuất hiện trong hôn mê nhưng cũng có khi cũng xảy ra trước hôn mê. Một số trường hợp bệnh lý nặng có triệu chứng tăng trương lực cơ, tư thế duỗi cứng, thậm chí lật ngược người lại dễ nhầm với bệnh uốn ván, viêm màng não. Xét nghiệm máu ghi nhận bạch cầu ở sốt rét ác tính trẻ em đôi khi tăng nhưng không nhất thiết phải ở trong trường hợp sốt rét ác tính có bội nhiễm.
Tỷ lệ tử vong của các trường hợp sốt rét ác tính trẻ em cao cấp 2 đến 3 lần so với người lớn và thường bị tử vong trong khoảng từ 1 đến 2 ngày đầu nhưng phục hồi cũng khá nhanh, trung bình sau 30 giờ. Di chứng để lại có khi chiếm 10% như liệt nửa người, rối loạn tiểu não, mù, chậm phát triển tư duy. Tình trạng mất nước ở sốt rét ác tính trẻ em phổ biến nhiều hơn so với sốt rét ác tính người lớn, thường có biểu hiện khô môi, mắt trũng, sụt cân, khát nước, đi tiểu ít, tỷ trọng nước tiểu cao; natri niệu thấp, chất cặn nước tiểu bình thường, urê huyết trên 6,5 mmol/l phản ánh tình trạng thiếu nước, không phải là suy thận cấp thực thể rất hiếm gặp ở trẻ em. Triệu chứng thiếu máu ở sốt rét ác tính trẻ em cũng thường trầm trọng hơn sốt rét ác tính người lớn, chủ yếu do mật độ ký sinh trùng sốt rét cao, biểu hiện dấu hiệu mạch nhanh, khó thở, gan to, tim có tiếng thổi tâm thu, thậm chí suy tim với nhịp ngựa phi; tình trạng thiếu máu nặng góp phần vào hội chứng bệnh lý của não như vật vã, hôn mê. Biến chứng hạ đường huyết ở sốt rét ác tính trẻ em đặc biệt khá phổ biến ở trẻ em dưới 3 tuổi có liên quan đến mật độ ký sinh trùng sốt rét cao, hôn mê sâu, có cơn co giật. Về mặt lâm sàng, đôi khi khó phát hiện biến chứng hạ đường huyết vì một số biểu hiện của hạ đường huyết giống như sốt rét ác tính thể não như hôn mê, co giật...
Hiện nay theo số liệu thống kê báo cáo, tỷ lệ sốt rét ác tính trẻ em và tử vong do sốt rét ở trẻ em đã được các địa phương trên cả nước khống chế tới mức thấp. Tuy nhiên, nếu các cơ sở y tế chủ quan, lơ là, không cảnh giác thì sốt rét ác tính có thể xảy ra ở đối tượng trẻ em sống trong vùng sốt rét lưu hành, trong đó có sốt rét ác tính thể não dẫn đến hậu quả tử vong không lường trước được khi chẩn đoán nhầm sốt rét ác tính với sốt xuất huyết thể não, viêm não Nhật Bản B, xuất huyết não... Vì vậy cần nhận biết các đặc điểm sốt rét ác tính trẻ em để phát hiện, chẩn đoán chính xác và điều trị bệnh kịp thời, phù hợp nhằm chủ động khống chế tử vong do sốt rét, đặc biệt là tử vong trẻ em, góp phần thực hiện tốt một trong ba mục tiêu cơ bản của dự án quốc gia phòng chống sốt rét.