Trong hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh sốt rét đã được Bộ Y tế ban hành; primaquine là một loại thuốc sử dụng diệt thể giao bào của ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum để chống lây lan và diệt thể ngủ trong gan của ký sinh trùng sốt rét Plasmodium vivax để chống tái phát xa.
Hiện nay các nhà khoa học cho rằng ký sinh trùng sốt rét chưa có khả năng kháng lại với thuốc primaquine, chúng vẫn có hiệu lực tốt trong điều trị.
Primaquine là thuốc chống sốt rét thuộc nhóm 8 aminoquinoleine có tác dụng diệt thể ngủ ở trong gan của tất cả các loại ký sinh trùng sốt rét và được sử dụng để điều trị tiệt căn sốt rét do nhiễm ký sinh trùng Plasmodium vivax, kể cả Plasmodium ovale. Khi dùng để điều trị tiệt căn bệnh sốt rét do nhiễm Plasmodium vivax cũng như Plasmodium ovale, primaquine phải dùng cùng với một loại thuốc diệt thể vô tính của ký sinh trùng trong hồng cầu máu. Thuốc chloroquine thường được sử dụng và vẫn có hiệu lực tốt để diệt ký sinh trùng thể vô tính trong hồng cầu của hai loại ký sinh trùng này. Ngoài ra, primaquine cũng được sử dụng để diệt thể giao bào chống lây lan của loại ký sinh trùng Plasmodium falciparum với một liều dùng duy nhất vì thuốc diệt thể vô tính trong hồng cầu của loại ký sinh trùng này không có khả năng diệt thể giao bào chống lây lan như các loại ký sinh trùng khác. Việc sử dụng primaquine liều duy nhất diệt giao bào của ký sinh trùng Plasmodium falciparum chống lây lan thường được thực hiện ở những vùng sốt rét lưu hành, người dân có nguy cơ bị tái nhiễm sốt rét. Cần lưu ý rằng, primaquine không có tác dụng chống lại các thể vô tính trong hồng cầu của ký sinh trùng Plasmodium falciparum, vì vậy trên lâm sàng chúng không được sử dụng để điều trị sốt rét do nhiễm loại ký sinh trùng này do không có khả năng cắt cơn sốt và diệt ký sinh trùng thể vô tính gây sốt.
Primaquine thường được sử dụng dưới dạng viên uống, không sản xuất ở dạng thuốc tiêm vì có tác dụng làm hạ huyết áp. Trong mỗi viên thuốc hàm lượng 13,2mg primaquine phosphate có chứa 7,5mg primaquine base; vì vậy cần căn cứ vào gốc base để tính liều lượng khi dùng nhằm tránh nhầm lẫn. Thuốc hấp thu nhanh qua ống tiêu hóa sau khi uống, đạt nồng độ đỉnh cao sau 1 đến 3 giờ và được thải qua nước tiểu dưới dạng các chất chuyển hóa; thuốc có thời gian bán hủy từ 5 đến 6 giờ. Hiện tượng dung nạp thuốc trung bình tương đối kém; tác dụng phụ có thể xảy ra như chán ăn, buồn nôn, nôn, đau dạ dày nhưng ít gặp khi sử dụng liều phù hợp; một số trường hợp huyết tán có thể xảy ra ở những người thiếu men G6PD. Nếu sử dụng liều cao có thể gây nên tai biến nặng như giảm bạch cầu, giảm hồng cầu, methemoglobine máu, ức chế tủy xương. Vì vậy primaquine chống chỉ định sử dụng cho trẻ em dưới 3 tuổi, phụ nữ có thai, người có bệnh gan và người thiếu men G6PD. Ở những cơ sở không có điều kiện xét nghiệm G6PD thì cần theo dõi biến động khối lượng hồng cầu, màu sắc da và màu sắc nước tiểu để phát hiện; khi thấy nước tiểu chuyển màu sẫm như nước vối hoặc màu nước cà phê đen thì phải kịp thời ngừng ngay thuốc sử dụng. Các nhà khoa học khuyến cáo nên uống thuốc primaquine sau khi ăn.
 |
Primaquine mặc dù nhu cầu sử dụng ít nhưng cần phải có tại các cơ sở y tế (ảnh NVH) |
Primaquine được dùng theo liều lượng tính trên cân nặng cơ thể hoặc tính trên nhóm tuổi và cần nhớ phải căn cứ vào gốc base để tính toán; trong mỗi viên thuốc 13,2mg gốc phosphate có chứa 7,5mg gốc base. Nếu tính theo cân nặng: để điều trị diệt thể giao bào chống lây lan của Plasmodium falciparum dùng liều 0,5mg base/kg cân nặng, uống liều duy nhất vào ngày cuối cùng của đợt điều trị sau khi đã dùng thuốc cắt sốt và diệt ký sinh trùng; để điều trị tiệt căn diệt thể ngủ trong gan của ký sinh trùng Plasmodium vivax chống tái phát xa dùng liều 0,25mg base/kg cân nặng, uống vào ngày đầu tiên cùng với thuốc chloroquine cắt sốt, diệt ký sinh trùng và uống đủ 14 ngày primaquine. Nếu tính theo lứa tuổi, thực hiện theo quy định của phác đồ điều trị được ban hành.
Thực tế ghi nhận mặc dù các nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu hiện tượng kháng thuốc primaquine trong điều trị tiệt căn chống tái phát xa đối với loại ký sinh trùng Plasmodium vivax và diệt thể giao bào chống lây lan đối với loại ký sinh trùng Plasmodium falciparum nhưng đến nay chưa thấy xuất hiện tình trạng thể giao bào của Plasmodium falciparum kháng thuốc primaquine; đối với tác dụng điều trị tiệt căn diệt thể ngủ ở gan chống tái phát xa của Plasmodium vivax, thuốc vẫn còn có hiệu lực tốt.
Sau nhiều năm tác động các biện pháp phòng chống tích cực, tình hình sốt rét hiện nay tại nước ta đã giảm xuống ở mức thấp; mặc dù primaquine là thuốc chiến lược nằm trong danh mục thuốc sốt rét thiết yếu nhưng thực tiễn loại thuốc này ít có mặt tại các cơ sở y tế vì nhu cầu sử dụng ít, hơn nữa đơn vị dược phẩm không đáp ứng do kế hoạch yêu cầu sản xuất với số lượng hạn chế, kinh doanh không hiệu quả. Dù sao đi nữa các cơ sở y tế cũng cần quan tâm, nên có thuốc primaquine tại cơ sở của mình từ bất cứ nguồn cung cấp nào để khi gặp bệnh nhân sốt rét có nhu cầu thì có thể xử trí đúng theo phác đồ quy định của Bộ Y tế; có thầy mà không có thuốc cũng xem như bị hạn chế, bó tay trong việc điều trị.