Khi mô tả cơn sốt trong bệnh sốt rét trên lâm sàng, các thầy thuốc thường dùng thuật ngữ sốt hàng ngày, sốt cách nhật, sốt cách hai ngày để hướng đến việc chẩn đoán bệnh. Việc chẩn đoán này được căn sứ vào tính chất cơn sốt gây nên do nhiễm các chủng loại ký sinh trùng sốt rét khi chưa có kết quả xét nghiệm cận lâm sàng.
Đặc điểm cơn sốt khi nhiễm ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng sốt rét gây bệnh cho người thường có 4 chủng loại là Plasmodium falciparum, Plasmodium vivax, Plasmodium malariae và Plasmodium ovale. Do đặc điểm sinh học của mỗi loại ký sinh trùng sốt rét khác nhau nên cơn sốt do ký sinh trùng sốt rét gây ra cũng có những đặc điểm khác nhau.
Plasmodium falciparum
Khi người bệnh bị nhiễm chủng loại ký sinh này, thời gian ủ bệnh ngắn từ 8 đến 16 ngày, trung bình 12 ngày. Sau đó, cơn sốt thường kịch phát, có khi hai cơn sốt xảy ra liên tiếp, khoảng cách giữa hai cơn sốt ngắn, thường trong 24 giờ có một cơn sốt nên trên lâm sàng được gọi là sốt hàng ngày. Mặc dù trên nghiên cứu thực nghiệm cho thấy thời gian để hoàn thành một chu kỳ ký sinh trùng sốt rét phát triển vô tính trong hồng cầu là 48 giờ.
Hiện tượng này được giải thích là có thể bệnh nhân sống trong vùng sốt rét lưu hành do những lần tái nhiễm khác nhau với thời gian ngắn nên Plasmodium falciparum có khả năng phân chia với số lượng ký sinh trùng lớn trong khoảng thời gian ngắn và có các thể loại của ký sinh trùng sốt rét ở bất kỳ lứa tuổi nào của hồng cầu, kể cả hồng cầu non lẫn hồng cầu già. Do vậy, chỉ cần một số lượng ký sinh trùng sốt rét trong một khoảng thời gian ngắn đã đạt được ngưỡng gây sốt. Ngưỡng gây sốt được xác định bằng số lượng hồng cầu bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét.
Bệnh thường tiến triển nặng, nếu không được phát hiện, chẩn đoán và điều trị kịp thời có thể dẫn đến sốt rét ác tính hoặc sốt rét tiểu huyết cầu tố.
Plasmodium vivax
Khi bệnh nhân bị nhiễm chủng loại ký sinh trùng này, thời gian ủ bệnh có thể ngắn hoặc dài, từ 10 đến 20 ngày; trung bình 14 ngày. Tuy vậy, thời gian ủ bệnh có thể kéo dài lâu hơn do thể thoa trùng (sporozoite) của ký sinh trùng sốt rét phát triển chậm trong tế bào gan, còn gọi là thể ngủ (hypnozoite) trong tế bào gan xâm nhập từng đợt vào hồng cầu để gây nên những cơn sốt sau đó. Sau thời gian ủ bệnh, bệnh khởi phát với các cơn sốt cách nhau 48 giờ nên thường được gọi là sốt cách nhật. Cơn sốt kéo dài có khi tới 10 giờ sau mới hết hoàn toàn. Bệnh nhân có thể bị sốt cao đến 40oC; tuy nhiên cũng có khi chỉ bị sốt nhẹ với thân nhiệt khoảng từ 37,5oC đến 38oC. Cơn sốt do nhiễm Plasmodium vivax thường không diễn biến rầm rộ nhưng làm cho bệnh nhân bị mệt mỏi kéo dài.
Plasmodium malariae
Khi người bệnh bị nhiễm chủng loại ký sinh trùng này, thời gian ủ bệnh từ 18 đến 35 ngày; trung bình 21 ngày. Tuy vậy, thời gian ủ bệnh có thể kéo dài lâu hơn có thể do ký sinh trùng phát triển chậm trong hồng cầu. Đặc điểm của cơn sốt là cách hai ngày xảy ra một cơn rất đặc trưng nên thường được gọi là sốt cách hai ngày. Khoảng cách giữa hai cơn sốt có thể thay đổi.
Trên thực tế lâm sàng, có khi sốt xảy ra hai cơn gọi là sốt đôi hoặc ba cơn rồi ngừng một thời gian. Cơn sốt xảy ra khá nặng và kéo dài nhưng chu kỳ cơn sốt thưa, bệnh nhân không bị suy sụp nhiều và ít có rối loạn trong cơ thể.
Plasmodium ovale
Khi bệnh nhân bị nhiễm chủng loại ký sinh trùng này, thời gian ủ bệnh có thể ngắn hoặc dài, từ 12 đến 20 ngày; trung bình 14 ngày. Tuy vậy, thời gian ủ bệnh có thể kéo dài lâu hơn do ký sinh trùng sốt rét cũng có thể thoa trùng (sporozoite) phát triển chậm trong tế bào gan, còn gọi là thể ngủ trong tế bào gan (hypnozoite) với đặc điểm gây bệnh giống như chủng loại ký sinh trùng Plasmodium vivax. Cơn sốt cũng xảy ra cách nhật, người bệnh bị sốt đột ngột, cơn sốt ngắn và nhẹ.Đặc điểm của cơn sốt là thường xảy ra vào buổi chiều và tối. Sốt kèm theo đau mỏi cơ, xương, khớp; đặc biệt là đau nhiều ở cột xương sống.
Cơ chế gây sốt trong bệnh sốt rét
Cơ chế gây nên cơn sốt trong bệnh sốt rét rất phức tạp, các nhà khoa học đã nêu ra nhiều giả thuyết có liên quan đến ngưỡng gây sốt, độc tố của ký sinh trùng sốt rét, trung tâm điều hòa nhiệt độ của cơ thể, sự quá mẫn của cơ thể, vai trò của bạch cầu đa nhân và đại thực bào...
Ngưỡng gây sốt
Theo quan niệm này, các cơn sốt rét xuất hiện khi số lượng ký sinh trùng sốt rét trong máu đạt tới một số lượng nhất định. Nhà khoa học Pavlovskii cho rằng chỉ cần khoảng từ 10 đến 15 ký sinh trùng sốt rét/ mm3 máu là đủ để gây nên cơn sốt. Nhà nghiên cứu Ross (1902) lại cho rằng đối với Plasmodium vivax phải cần tới 100 ký sinh trùng sốt rét/ mm3 máu và đối với Plasmodium falciparum phải cần tới 600 ký sinh trùng/ mm3 máu mới có thể gây nên cơn sốt. Nhà khoa học Sinton (1931) đưa ra kết quả nghiên cứu xác định ngưỡng gây sốt của cơn sốt tiên phát phải có số lượng ký sinh trùng sốt rét từ 200 đến 300 ký sinh trùng/ mm3 máu và cơn sốt tái phát phải có số lượng ký sinh trùng sốt rét 5.000 ký sinh trùng/ mm3 máu.
Tại nước ta, nhà khoa học Trịnh Trọng Phụng, Lê Bách Quang (1989) đã nghiên cứu trên những bệnh nhân sốt rét dai dẳng cho thấy khi lên cơn sốt số lượng ký sinh trùng sốt rét dao động từ 20 đến 20.000 ký sinh trùng/ mm3 máu; tuy vậy cá biệt có bệnh nhân có thể có trên 20.000 ký sinh trùng / mm3 máu mà vẫn không bị sốt.
Như vậy thật khó đặt vấn đề và giải thích một cách cụ thể là cần số lượng bao nhiêu ký sinh trùng sốt rét/ mm3 máu để đủ ngưỡng gây nên cơn sốt. Phải chăng ngoài số lượng ký sinh trùng sốt rét, còn có thể có nhiều yếu tố khác làm ảnh hưởng đến ngưỡng gây sốt trong bệnh sốt rét.
 |
Điều trị sốt rét tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP.HCM. Ảnh: T. Chương |
Độc tố của ký sinh trùng
Căn cứ trên những nghiên cứu thực nghiệm, nhà khoa học Fletcher và Maegraith (1972, 1974) đã đưa ra kết luận rằng ký sinh trùng sốt rét có yếu tố độc tố tế bào hòa tan (facteur cytotoxique soluble). Yếu tố này ức chế hô hấp tế bào và quá trình phosphorine hóa ty lạp thể.
Trung tâm điều hòa nhiệt độ
Theo quan điểm này, phản ứng sốt là phản ứng của trung tâm điều hòa nhiệt độ ở dưới đồi (hypothalamus) của não bộ ảnh hưởng tới các tác nhân kích thích khác nhau như: những mảnh tế bào non giải phóng ra khi hồng cầu bị vỡ, những độc tố đặc hiệu của ký sinh trùng, sắc tố của ký sinh trùng, những sản phẩm chuyển hóa của ký sinh trùng...
Phản ứng quá mẫn của cơ thể
Có quan niệm cho rằng cơn sốt rét gây nên do phản ứng quá mẫn của cơ thể đã có cảm ứng trước với sự kích thích kháng nguyên lặp lại.
Vai trò của bạch cầu đa nhân và đại thực bào
Trước đây các nhà khoa học cho rằng những độc tố của vi khuẩn, ký sinh trùng và các chất gây sốt khác khi xâm nhập vào cơ thể đã gây nên cơn sốt bằng cách tác động trực tiếp lên trung tâm điều hòa nhiệt độ vùng dưới đồi (hypothalamus) của não bộ. Đến năm 1958, nhà khoa học Bennet và Besson đã xác định những chất gây sốt chỉ kích thích bạch cầu đa nhân tiết ra chất gây sốt nội sinh (E.P.: endogen pyrogen). Năm 1965, nhà khoa học Sorokin A.V. lần đầu tiên cũng đưa ra quan điểm cơn sốt trong bệnh sốt rét có liên quan đến sự hình thành chất gây sốt nội sinh. Những sản phẩm độc tố của ký sinh trùng sốt rét kích thích bạch cầu đa nhân tiết chất gây sốt nội sinh. Chất gây sốt nội sinh là những protein có trọng lượng phân tử từ 10.000 đến 20.000, đây là chất trung gian làm phát triển phản ứng sốt.
Năm 1974, nhà khoa học Bodel.R. đã chứng minh thêm đại thực bào của gan, lách, hạch, phổi và bạch cầu đơn nhân của máu cũng có khả năng tổng hợp được chất gây sốt nội sinh. Những tế bào này tiết ra chất gây sốt nội sinh nhiều gấp từ 10 đến 15 lần so với lượng tương đương của bạch cầu đa nhân.
Các đại thực bào và bạch cầu đa nhân khi thực bào các mảnh ký sinh trùng non, các hạt sắc tố của ký sinh trùng và các mảnh hồng cầu vỡ đều tiết ra chất gây sốt nội sinh.
Cơn sốt có chu kỳ trong bệnh sốt rét là kết quả của sự liên quan chặt chẽ giữa chu kỳ phát triển của ký sinh trùng sốt rét tạo ra các mảnh ký sinh trùng non và quá trình thực bào của bạch cầu đa nhân, của đại thực bào.
Cơ chế gây sốt và các đặc điểm của cơn sốt trong bệnh sốt rét đang được các nhà khoa học hiện nay tiếp tục nghiên cứu ngoài những tài liệu, y văn của thế giới đã mô tả, thông báo. Vấn đề này cũng rất cần thiết để giúp các bác sĩ lâm sàng tham khảo, biện luận về sinh lý bệnh học trong chẩn đoán, điều trị bệnh nhân sốt rét.