Trong quá trình thực hiện công tác phòng chống sốt rét, việc phân vùng sốt rét nhằm mục đích chia một vùng rộng hay hẹp trong phạm vi của một nước, từng châu lục hoặc toàn thế giới thành các vùng có sốt rét và không có sốt rét. Vùng có sốt rét lại được chia ra làm những vùng tương ứng với mức độ nhẹ, vừa, nặng và rất nặng nhằm phục vụ cho công tác chỉ đạo, thực hiện các biện pháp phòng chống sốt rét kịp thời, đúng hướng theo thời gian, nhân lực, kinh tế, kỹ thuật, phương tiện... phù hợp cho từng vùng và khả năng đáp ứng của mỗi địa phương.
Do các điều kiện và yếu tố có thể thay đổi nên việc phân vùng rất cần thiết trong từng giai đoạn.
Những yếu tố phân vùng sốt rét
Trên thực tế, không có tiêu chuẩn để phân vùng sốt rét chung và thích hợp cho mọi nơi. Tùy theo từng điều kiện cụ thể để tiến hành việc phân vùng sốt rét cho thích hợp. Thông thường các nhà khoa học đã dựa vào các yếu tố về thiên nhiên, dịch học, kinh tế, xã hội, mạng lưới y tế cơ sở và mạng lưới chuyên khoa sốt rét để phân vùng sốt rét; trong đó yếu tố thiên nhiên và dịch học sốt rét là những yếu tố cơ bản, quyết định cho việc phân vùng. Yếu tố thiên nhiên thường căn cứ vào loại hình đất đai, đặc điểm địa hình như vùng rừng núi, trung du, đồng bằng, ven biển, vùng nước lợ... Đồng thời cũng căn cứ vào yếu tố về đặc điểm khí hậu, thời tiết như vùng nhiệt đới, ôn đới, hàn đới. Ngoài ra, ở những vùng tự nhiên trên cần căn cứ vào sự phân bố muỗi truyền bệnh sốt rét chủ yếu và cơ cấu ký sinh trùng sốt rét với những đặc điểm khác nhau. Yếu tố dịch học thường căn cứ vào chỉ số lách sưng và chỉ số ký sinh trùng sốt rét. Chỉ số lách sưng được xác định bằng tỷ lệ % lách sưng ở tất cả các đối tượng dân cư trong vùng, chú ý đến đối tượng trẻ em dưới 16 tuổi và trẻ em dưới 2 tuổi; cần phân biệt lách sưng do sốt rét với lách sưng do những nguyên nhân khác. Đồng thời cũng xác định chỉ số lách sưng trung bình gọi là chỉ số Ross biểu hiện cường độ sốt rét lưu hành ở trong vùng. Nếu không có người có lách sưng thì chỉ số Ross bằng 1. Nếu chỉ số Ross bằng hoặc lớn hơn 5 là vùng sốt rét nặng. Thực tế cho thấy chỉ số Ross không hoàn toàn chính xác vì nếu bệnh nhân bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum sẽ không gây nên lách sưng to như khi nhiễm Plasmodium vivax. Lưu ý rằng nhiều vùng sốt rét ở Việt Nam, ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum gây bệnh là chủ yếu nên dùng chỉ số này để xác định có thể không phản ánh được chính xác mức độ sốt rét của một vùng. Chỉ số ký sinh trùng sốt rét được xác định bằng tỷ lệ % ký sinh trùng sốt rét trong cộng đồng, chú ý đối tượng trẻ em từ 0 đến 2 tuổi là đối tượng chưa có miễn dịch, số lượng ký sinh trùng sốt rét cao. Từ hai chỉ số ký sinh trùng sốt rét và chỉ số lách sưng sẽ tính được chỉ số lưu hành bệnh.
 |
Phân vùng sốt rét trên thế giới (ảnh internet) |
Phân vùng sốt rét trên thế giới
Trên thế giới, việc phân vùng sốt rét đơn thuần dựa vào yếu tố địa lý, khí hậu hoặc nguyên nhân gây bệnh trên một phạm vi rộng lớn và chỉ có giá trị tương đối. Phân vùng sốt rét thường được thực hiện ở những nơi đã tiến hành chương trình khống chế bệnh sốt rét trên quy mô rộng lớn; ở những nơi này vùng sốt rét có biến động, thay đổi qua các giai đoạn của chương trình. Đồng thời việc phân vùng chủ yếu cũng chỉ dựa vào chỉ số ký sinh trùng sốt rét ở trẻ em từ 2 đến 9 tuổi. Năm 1964, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị dựa vào chỉ số lách sưng của trẻ em từ 2 đến 9 tuổi.
Phân vùng sốt rét tại Việt Nam
Căn cứ vào những yếu tố phân vùng sốt rét đã nêu, nước ta đã thực hiện việc phân vùng dựa vào yếu tố thiên nhiên, yếu tố dịch học và vấn đề dịch tễ sốt rét thực hành. Theo yếu tố thiên nhiên, việc phân vùng sốt rét ở miền Bắc Việt Nam trước năm 1975 dựa theo phân vùng sốt rét của Giáo sư Đặng Văn Ngữ năm 1958 được căn cứ vào yếu tố địa hình, địa lý, sự phân bố và phát triển của muỗi truyền bệnh sốt rét Anopheles minimus. Sau khi đất nước thống nhất vào năm 1975 đã phát hiện thêm loài muỗi truyền bệnh Anopheles dirus phân bố từ Thanh Hóa trở vào phía Nam, chúng chủ yếu hoạt động ở vùng rừng núi khác với sinh cảnh hoạt động của Anopheles minimus nên được các nhà khoa học bổ sung thêm vùng để phù hợp tình hình. Theo yếu tố dịch học, việc phân vùng sốt rét đã sử dụng các chỉ số liên quan như chỉ số lách sưng, chỉ số ký sinh trùng sốt rét, chủng loại ký sinh trùng sốt rét, các nhóm tuổi... và sự có mặt của muỗi trưởng thành, bọ gậy muỗi có khả năng lây truyền bệnh sốt rét. Ngoài ra còn căn cứ đến yếu tố mật độ dân cư, điều kiện vệ sinh, mức sống của người dân... Cách phân vùng này phản ánh đúng thực tế dịch học sốt rét ở một vùng rộng lớn hay ở một nước có bệnh sốt rét lưu hành.
 |
Phân vùng sốt rét tại Việt Nam (ảnh internet) |
Việc phân vùng dịch tễ sốt rét thực hành được kết hợp giữa 3 yếu tố thiên nhiên, yếu tố dịch tễ học và các yếu tố về tổ chức mạng lưới y tế cơ sở, mạng lưới chuyên khoa sốt rét với mục đích đề ra chiến thuật khống chế bệnh sốt rét phù hợp cho từng vùng. Năm 1984 nước ta đã tiến hành phân vùng dịch tễ sốt rét thực hành lần đầu tiên được ký hiệu bằng số La Mã hay bằng chữ như vùng I (A) là vùng không có bệnh sốt rét lưu hành; vùng II (B) là vùng đã cơ bản cắt đứt sự lây truyền bệnh sốt rét; vùng III (C) là vùng chưa hoàn toàn cắt đứt được sự lan truyền bệnh, có khả năng khống chế sốt rét nhưng khó khăn; vùng IV (D) là vùng chưa cắt đứt được sự lan truyền bệnh, chưa có khả năng khống chế sốt rét, có thể giảm mức sốt rét bằng những biện pháp quy ước; vùng V (E) là vùng chưa có khả năng cắt đứt sự truyền bệnh, giảm mức sốt rét khó khăn và không bền vững. Phân vùng dịch tễ sốt rét thực hành đã kết hợp nhiều yếu tố, đồng thời nêu được tiên lượng, khả năng và các biện pháp áp dụng cho từng vùng trong chương trình quốc gia phòng chống sốt rét. Đến giai đoạn năm 2000-2005, việc phân vùng dịch tễ sốt rét thực hành đã được bổ sung, điều chỉnh để phù hợp với tình hình thực tiễn của từng thời điểm, từng địa phương; tăng cường hiệu quả và tiết kiệm kinh phí trong phòng chống sốt rét. Theo quy ước, qua mỗi giai đoạn 5 năm, cần tiến hành phân vùng dịch tễ sốt rét thực hành lại để đề ra các biện pháp can thiệp phù hợp cho từng vùng. Tại nước ta giai đoạn từ năm 2000-2005 cho đến nay, việc phân vùng sốt rét được chia thành 5 vùng gồm vùng I là vùng không có sốt rét lưu hành, vùng II là vùng có nguy cơ sốt rét quay trở lại, vùng III là vùng sốt rét lưu hành nhẹ, vùng IV là vùng sốt rét lưu hành vừa, vùng V là vùng sốt rét lưu hành nặng. Mỗi vùng sốt rét được xác định các đặc điểm về địa lý, sinh cảnh, muỗi truyền bệnh và mầm bệnh ký sinh trùng sốt rét. Vì vậy mỗi đơn vị tỉnh hoặc mỗi huyện có thể sẽ có nhiều vùng dịch tễ sốt rét thực hành khác nhau nên tùy theo mỗi vùng sốt rét để áp dụng các biện pháp can thiệp khác nhau.
 |
Sinh cảnh vùng sốt rét lưu hành (ảnh internet) |
Khuyến nghị
Thực tế ghi nhận việc phân vùng sốt rét tại nước ta để tổ chức thực hiện các biện pháp can thiệp trong suốt thời gian qua đã mang lại những hiệu quả tốt đối với công tác phòng chống sốt rét, giúp đạt được các mục tiêu cơ bản. Tuy nhiên, các yếu tố có liên quan đến thiên nhiên, dịch học, mạng lưới y tế cơ sở và mạng lưới chuyên khoa sốt rét có khả năng thay đổi nhiều nên theo quy ước việc phân vùng dịch tễ sốt rét thực hành được tiến hành qua mỗi giai đoạn 5 năm là rất cần thiết để phù hợp với tình hình hiện nay. Việt Nam cũng đang chuyển chiến lược từ phòng chống sốt rét sang chiến lược vừa phòng chống vừa loại trừ sốt rét nên việc phân vùng dịch tễ sốt rét thực hành lại trong từng giai đoạn càng cần thiết hơn. Đây là trách nhiệm của các nhà khoa học thuộc lĩnh vực chuyên khoa đối với vấn đề này.