Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 339/QĐ-BYT ngày 31/01/2007 hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét áp dụng cho tất cả cơ sở khám, chữa bệnh trên toàn quốc. Trong hướng dẫn có quy định việc cấp thuốc tự điều trị cho một số các đối tượng có nguy cơ mắc bệnh sốt rét để chủ động ngăn ngừa sốt rét thể thông thường chuyển thành sốt rét thể ác tính nhằm hạn chế tử vong. Qua thực tế ứng dụng, một số các cơ sở y tế chưa thực hiện được đầy đủ những quy định này.
Cấp thuốc tự điều trị có khác với cấp thuốc uống dự phòng không ?
Trong hướng dẫn cũ của Bộ Y tế ban hành vào năm 2003 có quy định việc uống thuốc phòng sốt rét được áp dụng cho các đối tượng có nguy cơ tạm thời như phụ nữ có thai sống trong vùng sốt rét, khách du lịch, người đến công tác có thời hạn trong vòng 6 tháng ở vùng sốt rét và người mới đến định cư vùng sốt rét trong vòng 6 tháng đầu. Thuốc Chloroquin được chỉ định uống phòng ở những vùng có ký sinh trùng sốt rét còn nhạy cảm với loại thuốc này, nếu ở những vùng có hiện tượng kháng thuốc Chloroquin thì thay thế bằng thuốc Mefloquin. Việc áp dụng đã không mang lại hiệu quả mong muốn vì có khả năng làm gia tăng sự kháng thuốc của ký sinh trùng sốt rét khi sử dụng một thời gian dài và gây lãng phí khi sử dụng một lượng thuốc rất lớn cấp cho các đối tượng có nguy cơ tạm thời này. Trong hướng dẫn mới của Bộ Y tế ban hành năm 2007 không quy định việc cấp thuốc uống phòng sốt rét cho các đối tượng có nguy cơ tạm thời mà chỉ thực hiện việc cấp thuốc tự điều trị cho một số các đối tượng cần thiết.
Uống thuốc dự phòng là sử dụng thuốc để phòng bệnh khi chưa bị mắc bệnh sốt rét. Nếu bị mắc bệnh ở vùng sốt rét với tình trạng nhiễm ký sinh trùng do muỗi truyền, thuốc đã uống phòng sẽ có khả năng diệt được mầm bệnh, phòng ngừa bệnh phát triển. Thuốc tự điều trị là thuốc được cấp cho các đối tượng có nguy cơ bị mắc bệnh cần thiết dự trữ bên mình và chỉ sử dụng khi đã bị mắc bệnh với các triệu chứng lâm sàng nghi ngờ bị mắc bệnh sốt rét. Như vậy uống thuốc dự phòng là sử dụng thuốc khi chưa bị mắc bệnh, còn thuốc tự điều trị là thuốc chỉ sử dụng khi đã bị mắc bệnh và tự mình điều trị bệnh cho bản thân mình. Quy đinh hiện nay của Bộ Y tế là không cấp thuốc uống phòng, chỉ cấp thuốc tự điều trị cho một số các đối tượng cần thiết. Thuốc tự điều trị được Nhà nước cấp hoàn toàn miễn phí cho người dân, vì vậy các cơ sở y tế cần chú ý để thực hiện đúng theo quy định.
Đối tượng nào được cấp thuốc tự điều trị bệnh sốt rét ?
Cán bộ y tế ở các cơ sở có trách nhiệm cấp thuốc và hướng dẫn cụ thể việc nhận biết triệu chứng của bệnh sốt rét, biết sử dụng thuốc để tự điều trị khi bị nhiễm bệnh cho ba đối tượng có nguy cơ mắc bệnh là phụ nữ có thai sống trong vùng sốt rét, khách du lịch, người mới vào vùng sốt rét trong vòng 6 tháng và người đi rừng, ngủ rẫy, người qua lại biên giới vùng sốt rét lưu hành. Khi cấp thuốc, cán bộ y tế phải quản lý được hoạt động của các đối tượng này và cần có danh sách theo dõi cụ thể, điều chú ý là phải hướng dẫn một cách rõ ràng thuốc mang theo bên mình chỉ sử dụng khi bị sốt nếu nghi ngờ sốt do mắc bệnh sốt rét, không sử dụng thuốc được cấp uống phòng như trước đây. Để nhận biết các dấu hiệu khi bị mắc bệnh sốt rét, cán bộ y tế cần truyền thông giáo dục cho các đối tượng nhận biết cơn sốt điển hình với ba triệu chứng rét run-sốt nóng-ra mồ hôi và cơn sốt không điển hình như sốt không thành cơn, chỉ thấy ớn lạnh, gai rét thường gặp ở trẻ nhỏ và người sống ở vùng sốt rét lưu hành hoặc bị sốt liên tục, dao động trong 5-7 ngày đầu rồi sau đó mới thành cơn thường gặp ở người bị bệnh sốt rét lần đầu. Để sử dụng thuốc tự điều trị có hiệu quả khi được cấp, cán bộ y tế cũng phải hướng dẫn cụ thể tên thuốc, liều lượng thuốc uống trong ngày, số ngày cần phải uống thuốc và cách bảo quản thuốc không bị hư hỏng nhằm bảo đảm việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý. Thuốc tự điều trị nên cấp loại thuốc có hiệu lực cao, sử dụng liều ngắn ngày, người được cấp thuốc dễ nhớ khi được hướng dẫn.
Theo dõi thuốc điều trị cho phụ nữ có thai sống trong vùng sốt rét ?
Phụ nữ có thai sống trong vùng sốt rét là đối tượng nguy cơ cần được quan tâm vì tình trạng thai nghén làm cho sức đề kháng miễn dịch bị suy yếu, cơ hội bị mắc bệnh sốt rét sẽ nhiều hơn nhất là vào quý hai của thời kỳ mang thai đối với người phụ nữ có thai lần đầu. Khi bị mắc bệnh, bệnh cảnh lâm sàng thường diễn biến nặng, đường huyết giảm, chủ yếu xảy ra vào ba tháng cuối của thai kỳ, khi chuyển dạ và sau khi sinh đẻ. Nếu nhiễm bệnh sốt rét do chủng loại ký sinh trùng Plasmodium falciparum, nguy cơ bị sốt rét thể ác tính cao hơn so với người phụ nữ không mang thai (có khi tới 10-15%) và tử vong thường chiếm tỷ lệ cao (30% hoặc hơn). Tình trạng thai nghén còn là yếu tố gây tái phát xa do thể ngủ ở trong gan nếu bị nhiễm chủng loại ký sinh trùng Plasmodium vivax. Cấp thuốc tự điều trị cho phụ nữ có thai sống trong vùng sốt rét nhằm mục đích ngăn ngừa những hậu quả xấu xảy ra khi đối tượng này bị mắc bệnh, đồng thời cũng góp phần làm hạn chế những trường hợp sẩy thai, đẻ non, thai chết lưu hoặc sốt rét bẩm sinh ... Cán bộ y tế cần phải chú ý các loại thuốc điều trị sốt rét chống chỉ định sử dụng cho phụ nữ có thai, phụ nữ có thai dưới 3 tháng để cấp thuốc bảo đảm an toàn cho cả người mẹ lẫn thai nhi. Các trường hợp phụ nữ có thai sống trong vùng sốt rét cần thiết phải có sự hướng dẫn, tư vấn, theo dõi, giám sát chặt chẽ của cán bộ y tế tại cơ sở khi cấp thuốc để điều trị khi bị mắc bệnh.
Thuốc sốt rét nào được cấp để tự điều tri ?
Thuốc cấp tự điều trị bệnh sốt rét cho các đối tượng cần thiết theo quy định của Bộ Y tế phải được cán bộ y tế cân nhắc thận trọng trước khi cấp và hướng dẫn cho người dân. Nên cấp những loại thuốc có phương thức sử dụng đơn giản, ngắn ngày, có hiệu lực cao, người dân dễ nhớ khi được hướng dẫn ... Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khuyến cáo trong điều trị bệnh sốt rét không nên dùng thuốc Artemisinin, Artesunat đơn thuần mà nên dùng Artemisinin hoặc các dẫn xuất của nó phối hợp với thuốc khác để tăng tính hiệu quả như các loại thuốc CV8, Artekin, Arterakin, Artecan ... Thuốc Artesunat đơn thuần, Quinin sulfat đơn thuần không nên cấp tự điều trị vì sử dụng quá dài ngày (liều 7 ngày), số lượng thuốc cấp nhiều (người lớn 16 viên Artesunat hoặc 42 viên Quinin sulfat). Thuốc CV8 (thuốc phối hợp Dihydroartemisinin + Piperaquin + Trimethoprim + Primaquin) đã được khuyến cáo hạn chế sử dụng và cũng không sản xuất tiếp tục vì thành phần thuốc có Primaquin chống chỉ định trên một số các đối tượng, vai trò tác dụng của Trimethoprim đối với ký sinh trùng sốt rét chưa rõ. Như vậy thuốc cấp tự điều trị được chọn lọc hợp lý trên thực tế hiện nay là Artekin, Arterakin hoặc Artecan (thuốc phối hợp Dihydroartemisinin + Piperaquin), liều thuốc chỉ sử dụng trong 3 ngày, số lượng thuốc ít (người lớn liều 8 viên). Thuốc Chloroquin có thể cấp tự điều trị ở những vùng có chủng loại ký sinh trùng sốt rét Plasmodium vivax gây bệnh chiếm ưu thế hoặc chủng loại Plasmodium falciparum còn nhạy cảm, đáp ứng tốt đối với loại thuốc này vì thuốc cũng chỉ sử dụng trong 3 ngày, số lượng thuốc ít (người lớn liều 10 viên). Điều mà cán bộ y tế cần cân nhắc, chọn lọc, thận trọng nhất là cấp thuốc tự điều trị cho phụ nữ có thai sống trong vùng sốt rét lưu hành.