Home TRANG CHỦ Thứ 5, ngày 19/09/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 3 5 9 2 1 0 1
Số người đang truy cập
9 9
 Chuyên đề
Phần 2: Cập nhật hướng dẫn về chẩn đoán và điều trị bệnh giun phổi chuột thần kinh-neuroangiostrongyliasis

Quản lý lâm sàng bệnh bệnh giun phổi chuột thần kinh

Thủ thuật chọc ống sống thắt lưng lần đầu và các lần sau đó

Các lần LP không chỉ có tác dụng chẩn đoán mà còn có tác dụng điều trị (Sawanyawisuth và Sawanyawisuth, 2008). Giả định không bị chống chỉ định, các lần LP có thể được lặp lại mỗi lần nếu cần thiết để giảm đau đầu. Các lần LP có thể là phương pháp điều trị tốt nhất cho bệnh nhân bị chống chỉ định liều cao corticosteroid hoặc không dung nạp thuốc tốt.

Corticosteroids liều cao

Hầu hết các bệnh nhân nhiễm NAS được khuyến nghị sử dụng liều cao corticosteroid, tuy nhiên chúng có thể không cần thiết trong các trường hợp rất nhẹ (Sawanyawisuth và Sawanyawisuth, 2008). Điều trị thuốc nên được bắt đầu ngay khi có chẩn đoán giả định được đưa ra, tức trước khi có xác nhận bằng RTi-PCR.

Các thuốc corticosteroid như prednisolone hoặc prednisone (60 mg/ngày ở người lớn hoặc 1-1,5 mg/kg/ngày ở trẻ em chia thành nhiều lần không vượt quá 80-100 mg) hoặc dexamethasone (10-20 mg/kg/ngày ở người lớn và 0,6 mg/kg/ngày ở trẻ em chia thành nhiều lần) cải thiện triệu chứng đau đầu do NAS gây ra. Một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có nhóm đối chứng tại Thái Lan đã nghiên cứu sử dụng prednisolone 60 mg/ngày trong vòng 14 ngày so với giả dược trên 129 bệnh nhân trên 15 tuổi mắc EOM (Chotmongkol et al., 2000). Tiến hànhsắp xếp ngẫu nhiên các nhóm để đạt được sự cân bằng về mức độ nghiêm trọng của bệnh và loại trừ bệnh nhân có tình trạng rối loạn ý thức. Chỉ tiêu chính là số bệnh nhân vẫn bị đau đầu sau 14 ngày và chỉ tiêu phụ là thời gian kéo dài của chứng đau đầu. Số lần LP lặp lại để giảm đau đầu cũng được ghi nhận. Có 5 bệnh nhân trong nhóm sử dụng prednisolone vẫn bị đau đầu vào ngày thứ 14 so với 25 trong nhóm giả dược, P <0,0001. Nhóm sử dụng prednisolone có thời gian trung bình để chứng đau đầu hoàn toàn tiêu biến là 5 ngày so với 13 ngày trong nhóm giả dược, P <0,0001. Có 7 lần lấy LP lặp lại trong nhóm sử dụng prednisolone so với 22 lần trong nhóm giả dược, P = 0,002. Không có tác dụng phụ nghiêm trọng được ghi nhận. Việc loại bỏ bệnh nhân bị bệnh nặng ngăn cản khả năng khái quát hoá kết quả nghiên cứu đối với nhóm bệnh nhân bị rối loạn ý thức. Các nhà nghiên cứu không phát hiện sự tái phát trong quá trình theo dõi, cho thấy rằng quần thể bệnh nhân có thể đã mắc bệnh tương đối nhẹ.

Một nghiên cứu hồi cứu tại Thái Lan (Chotmongkol và Sawanyawisuth, 2002) đã nghiên cứu vai trò của corticosteroid liều cao đối với một nhóm 7 bệnh nhân mắc “viêm não màng não”(meningoencephalitis), tất cả đều đang trong tình trạng nguy kịch và hôn mê. Trong nghiên cứu này, corticosteroid không có vẻ có ích cho các bệnh nhân đang hôn mê. Sáu bệnh nhân đã chết và một người vẫn đang trong tình trạng hôn mê. Không rõ liệu corticosteroid có thể hữu ích nếu bệnh nhân được điều trị sớm hơn trong quá trình mắc bệnh của họ.

Corticosteroid thường được sử dụng trong vòng 2 tuần nhưng có thể cần giảm dần trong vài tuần hoặc tháng. Một nghiên cứu tại Thái Lan đánh giá tính hiệu quả của liệu trình prednisolone 60 mg mỗi ngày trong vòng 1 tuần đối với 52 bệnh nhân (Sawanyawisuth et al., 2004). Tám bệnh nhân (15%) tái phát sau khi ngừng sử dụng corticosteroid và 6 trong số này phải quay lại sử dụng steroid hoặc thực hiện các LP để giảm đau đầu. Có thểcác liệu trình ngắn hơn của corticosteroid có hiệu quả trong những trường hợp tương đối nhẹ hoặc chúng có thể được sử dụng kết hợp với các lần LP đối với bệnh nhân không dung nạp các liệu trìnhcorticosteroid dài hơn. Hiện vẫn chưa rõ liệu corticosteroid có cải thiện được các kết quả điều trị quan trọng khác như tử vong và tình trạng khuyết tật dài hạn hay không. Cần thực hiện các thử nghiệm quy mô lớn, mù đôi và có đối chứng để giải quyết vấn đề này.

Điều trị bằng thuốc diệt giun sán

Một số loại thuốc diệt giun sán đã được sử dụng để điều trị NAS, bao gồm các loại benzimidazol như albendazole, mebendazole, thiabendazole và fenbendazole. Các loại thuốc diệt giun sán khác như ivermectin và levamisole cũng đã được sử dụng ở một số quốc gia.Trong số các loại benzimidazol, albendazole có vẻ là lựa chọn tốt nhất để điều trị NAS. Thuốc đi qua hàng rào máu não và cho thấy nồng độ thuốc cao hơn so với các loại benzimidazol khác trong dịch não tuỷ. Việc hấp thụ được cải thiện lên đến 5 lần nếu nó được uống sau bữa ăn có chất béo (Bloom và Ryan, 2013).

Cho đến nay mới chỉ có một thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng giả dược, về một loại thuốc giun không có corticosteroid điều trị bệnh nhiễm giun phổi chuột thần kinh đã được báo cáo (Jitpimolmard và cộng sự, 2007). Albendazole (15 mg kg-1 mỗi ngày trong 2 liều dùng) hoặc giả dược đã được sử dụng trong 2 tuần đối với bệnh nhân Thái Lan nhiễm NAS. Chỉ tiêu lâm sàng chính là số bệnh nhân còn đau đầu sau 2 tuần, và chỉ tiêu lâm sàng phụ là thời gian để giảm đau đầu tính bằng ngày, có sử dụng paracetamol, và số lần tiến hành LP. Bảy trong số 34 bệnh nhân (21%) trong nhóm albendazole vẫn còn đau đầu sau 14 ngày so với 13/32 (41%) trong nhóm giả dược, P = 0,08. Thời gian trung bình của đau đầu là 9 ngày trong nhóm albendazole so với 16 ngày trong nhóm giả dược, P = 0,05. Số lượng viên paracetamol được sử dụng trung bình là 24 viên với albendazole so với 38 viên với giả dược, P = 0,01. Số lần thực hiện LP không khác biệt đáng kể. Không có dấu hiệu nào cho thấy bệnh nhân dùng albendazole trở nên tồi tệ hơn so với những người nhận giả dược. Thử nghiệm được thiết kế tốt này cho thấy riêng albendazole có thể hiệu quả trong điều trị bệnh nhân NAS không rối loạn ý thức, nhưng kết quả đạt được chỉ có ý nghĩa thống kê hạn chế.

Có vài nghiên cứu trường hợp sử dụng thuốc diệt giun sán trên tất cả hoặc một số bệnh nhân. Hwang và Chen báo cáo về một loạt trường hợp gồm 82 trẻ em ở Đài Loan mắc bệnh giun phổi chuột thần kinh (Hwang và Chen, 1991). Trong số đó, 83% trẻ em này đã ăn ốc sên Lissachatina fulica nên có thể đã ăn phảiấu trùng nhiễm bệnh. Giun được phát hiện trong dịch não tuỷ ở 41,5% trường hợp, cho thấy số lượnggiunnhiều. Mặc dù nghiên cứu này không được thiết kế như là một thử nghiệm điều trị, bệnh nhân ban đầu được điều trị với glycerol, mannitol hoặc steroid, cùng với các đợt LP. Trong giai đoạn cuối của nghiên cứu, thuốc diệt giun sán (levamisole 2,5 mg kg-1 ngày-1 hoặc albendazole 10 mg kg-1 ngày-1, trong 3 tuần) được sử dụng thay thế cho steroid đối với 22 trẻ em. Không có biến chứng hoặc di chứngbất lợi nào trong nhóm phụ này này, mặc dù có 4 trẻ em tử vong (cùng với 6 trẻ em phát triển di chứng dài hạn) trong nhóm dùng steroid. 4 trường hợp tử vong đều là bệnh nhân đã hôn mê khi nhập viện. Nghiên cứu này cho thấy thuốc diệt giun sán không gây hại cho trẻ em mắc NAS, mặc dù không đủ bằng chứng để kết luận về hiệu lực thuốc. Tuy nhiên, nó cung cấp thêm bằng chứng cho thấy bệnh nhân mắc NAS hôn mê không nhận được lợi ích gì khi sử dụng corticosteroid (Chotmongkol và Sawanyawisuth, 2002).

Một liều albendazole phổ biến đã được báo cáo trong điều trị NAS là 15 mg/kg-1 ngày-1 chia làm hai liều trong 14 ngày (Jitpimolmard et al., 2007). Albendazole được dung nạp tốt, nhưng do các phản ứng đặc ứng (idiosyncratic reaction) hiếm gặp bao gồm suy gan và thiếu máu giảm cả 3 dòng tế bào (pancytopenia), nên đề nghị theo dõi công thức máu toàn phần có đếm thành phần bạch cầu và theo dõi men gan. Thuốc này gây dị tật ở một số động vật và được liệt kê là thuốc thai sản nhóm C (Bloom và Ryan, 2013); do đó, nó nên được sử dụng cẩn thận ở phụ nữ mang thai đặc biệt là trong ba tháng đầu tiên.

Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy thuốc giun sán có hiệu quả nhất đối với ấu trùng non và cần được sử dụng trong vòng 1-3 tuần đầu sau khi bị nhiễm để có hiệu quả. Một nghiên cứu trên động vật đã phát hiện albendazole hiệu quả nhất khi được sử dụng từ ngày 5 đến ngày 14 sau khi bị nhiễm, sau đó hiệu lực tiêu diệt ấu trùng nhanh chóng giảm (Hwang và Chen, 1988). Những dữ liệu này cho thấy cần khuyến nghị bắt đầu điều trị thuốc chống giun sán ngay khi có chẩn đoán giả định chứ không chờ xác nhận bằng RTi-PCR. Những lợi ích về mặt lý thuyết của việc tiêu diệt ấu trùng sớm trong quá trình trị bệnh bao gồm hạn chế tổn thương do sự di trú của ấu trùng và ngăn ngừa ấu trùng nhỏ phát triển thành ấu trùng lớn hơn có thể gây ra nhiều sự phá hoại hơn. Khi ấu trùng A. cantonensis trưởng thành trong hệ thống thần kinh trung ương, thể tích của chúng tăng lên hơn 1000 lần (Prociv và Turner, 2018).

Dữ liệu về việc sử dụng cả thuốc diệt giun sán và corticosteroid trong điều trị NAS không cho thấy sự ưu việt của sự kết hợp này, nhưng cho thấy rằng nó được dung nạp tốt và an toàn. Một nghiên cứu không đối chứng đã đánh giá 41 bệnh nhân bị EOM được điều trị với prednisolone 60mg/ngày và mebendazole 10mg/kg/ngày trong 2 tuần đã cho thấy chấm dứt đau đầu ở 37 bệnh nhân (90%) sau liệu trình điều trị 2 tuần (Chotmongkol et al., 2006). Độ dài trung bình thời gian đến khi đau đầu hoàn toàn biến mất là 3 ngày. Không quan sát thấy tác dụng phụ nghiêm trọng (Chotmongkol et al., 2006). Tác giả kết luận rằng sự kết hợp của prednisolone và mebendazole trong 2 tuần là an toàn và hiệu quả trong giảm đau đầu ở bệnh nhân bị EOM.

Trong một thử nghiệm điều trị không mù so sánh giữa prednisolone + albendazole và chỉ sử dụng prednisolone để điều trị EOM (Chotmongkol et al., 2009), kết quả cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về số lượng bệnh nhân vẫn còn đau đầu sau 14 ngày hoặc thời gian đau đầu trung bình. Tuy nhiên, các bệnh nhân trong nghiên cứu này dường như mắc bệnh nhẹ và có sự khác biệt về đặc điểm dữ liệu nền giữa hai nhóm, đặc biệt là nhóm albendazole có thời gian triệu chứng kéo dài hơn (13,5 ngày) so với nhóm đối chứng không dùng albendazole (7 ngày).

Việc sử dụng thuốc giun sán để điều trị NAS đã gây tranh cãi trong vài thập kỷ vì những lo ngại về mặt lý thuyết rằng sự giết chết ấu trùng sán nhanh chóng có thể làm tăng phản ứng viêm nhiễm ở não và tủy sống (Bowden, 1981; Pien và Pien, 1999; Leone et al., 2007; Wang et al., 2008). Tuy nhiên, chưa có các nghiên cứu lâm sàng hoặc trên động vật nào có thể đưa ra căn cứđáng tin cậy cho mối lo ngại này. Trên thực tế, các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy sự giảm viêm nhiễm khi chỉ sử dụng albendazole để điều trị (Lan et al., 2004). Chúng tôi tin rằng trong hầu hết các trường hợp NAS, lợi ích tiềm năng của albendazole vượt qua những nguy cơ trên lý thuyết kia. Tuy nhiên, quyết định sử dụng thuốc diệt giun sán nên được đưa ra trên cơ sở từng trường hợp cụ thể và các yếu tố như thời gian tiếp xúc (nếu đã biết) cũng nên được xem xét. Cho đến khi có đầy đủ dữ liệu về tính an toàn, chúng tôi khuyến nghị sử dụng corticosteroids đồng thời với albendazole trong điều trị NAS.

Giám sát bệnh nhân

Bệnh nhân mắc NAS cần được theo dõi chặt chẽ với các kiểm tra thần kinh liên tục. Khi có các triệu chứng hoặc dấu hiệu tồi tệ hơn cần tiến hành quan sát hình ảnh thần kinh (ví dụ: MRI não hoặc tủy sống) và có thể lặp lại LP. Nếu áp lực nội sọ (ICP) cao, có thể cần phải lấy một lượng lớn dịch não tủy. Các đợt tăng huyết áp mới xuất hiện có thể báo hiệu tăng ICP (phản xạ Cushing). Albendazole có thể gây tăng men gan và cần được giám sát. Nếu sử dụng corticosteroid trong hơn 14 ngày (hoặc sử dụng cho trẻ em), liều lượng cần được giảm dần một cách cẩn thận do tiềm năng gây suy tuyến thượng thận (Williams, 2018).

Di chứng lâu dài

Kinh nghiệm truyền miệng (chưa được chứng minh khoa học) ở Hawaii đã cho thấy nhiều bệnh nhân phát triển di chứng thần kinh mãn tính ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng chức năng và chất lượng cuộc sống của họ. Một trường hợp nghiên cứu (Hochberg et al., 2011) đã báo cáo rằng đau đầu, chứng dị cảm (paresthesias), tăng cảm (hyperesthesias) và tê bì có thể kéo dài trong nhiều tháng. Ngoài ra, một nghiên cứu chưa được công bố trên 10 người mắc NAS ở Hawaii đã phát hiện rằng một số lượng đáng kể báo cáo về triệu chứng còn tiếp diễn (ví dụ: chứng dị cảm, đaudo nguyên nhân thần kinh, đau cơ và rối loạn giấc ngủ) tiếp tục kéo dài nhiều năm sau khi nhiễm bệnh cấp.

Kiểm soát cơn đau

Kiểm soát cơn đau giai đoạn cấp tính

Việc rút lượng lớn dịch tinh thể cột sống (VD: 20-40 mL ở người lớn) có hiệu quả trong việc giảm đau đầu cấp tính liên quan đến NAS (Murphy và Johnson, 2013). Các liều cao corticosteroid cũng có thể giảm bớt tác động do đau nửa đầu. Thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs) có thể bị chống chỉ định do tăng nguy cơ chảy máu đường tiêu hóa nếu được sử dụng đồng thời với liều cao corticosteroid. NSAIDs cũng có thể tăng nguy cơ chảy máu trong sọ não. Các thuốc có gốc thuốc phiện (opioids) nên được sử dụng cẩn thận (nếu có) do có thể gây thay đổi tình trạng tâm thần (VD: rối loạn ý thức, an thần) và do tiềm năng gây lạm dụng thuốc.

Điều trị di chứng mãn tính

Đau thần kinh mạn tính có thể là hậu quả của NAS. Gabapentin, pregabalin, các thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCA), các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI), các chất ức chế tái hấp thu serotonin-norepinephrine (SNRI) và ketamine đã được sử dụng để điều trị đau thần kinh mạn tínhdo các nguyên nhân khác nhau với mức độ thành công khác nhau (Cruccu và Truini, 2017). Một bài đánh giá về các thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứngsử dụng dược liệu pháp (pharmacotherapy)điều trị đau thần kinh mạn tính ở người lớn (Finnerup et al., 2015) kết luận rằng hiệu lực hạn chế, phản ứng giả dược lớn, tiêu chí chẩn đoán không đầy đủ và phân tích đặc điểm di truyền kém đã dẫn đến kết quả thử nghiệm không có nhiều ý nghĩa.

Hầu hết các thử nghiệm về sử dụng các hợp chất cannabioid điều trị đau thần kinh mạn tính không cho thấy hiệu quả rõ rệt (Aviram và Samuelly-Leichtag, 2017). Tương tự, Meng và cộng sự đã đánh giá 11 thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng và kết luận rằng có thể có một sự giảm đau trung bình đáng kể nhưng, có ý nghĩa lâm sàng nhỏ, tuy nhiên các nghiên cứu này không duy trì được chất lượng cao (Meng et al., 2017).

Một đánh giá trênthư viện Cochrane về châm cứu để giảm đau thần kinh ở người lớn (Ju et al., 2017) đã cho rằng "bằng chứng không đủ để ủng hộ hoặc phủ nhận việc sử dụng châm cứu để giảm đau thần kinh nói chung, hoặc cho bất kỳ tình trạng đau thần kinh cụ thể nào khi so sánh với châm cứu giả hoặc các liệu pháp đang được sử dụng khác."

Những người có triệu chứng mãn tính liên quan đến NAS có thể được hưởng lợi từ một phương pháp tiếp cận đa ngành bao gồm liệu pháp vật lý trị liệu, hỗ trợ tâm lý xã hội và có thể là các liệu pháp thay thế/bổ trợ. Tư vấn thần kinh học, trị liệu vật lý và kiểm soát cơn đau cũng có thể hữu ích. Ở Hawaii, các nhóm hỗ trợ bệnh nhân giúp bệnh nhân, người phụ tá chăm sóc và nhân viên y tế chia sẻ thông tin và kinh nghiệm, và có thể giúp bệnh nhân chịu đựng tác động về mặt thể chất và tâm lý kéo dài gây ra bởicác vấn đề sức khoẻ của họ.

Bàn luận

Phổ bệnh do A. cantonensis gây ra tại Hawaii phản ánh những gì được báo cáo từ các vùng khác (Oehler et al., 2014). Tuy nhiên, các bệnh nghiêm trọng dường như phổ biến hơn ở Hawaii và các nước như Úc và Jamaica (Blair et al., 2013; Evans-Gilbert et al., 2014) so với Thái Lan, nơi đã tiến hành phần lớn các cuộc thử nghiệm điều trị. Sự khác biệt này có thể do lượng ký sinh trùng nhiễm bệnh được ăn vào. Ở Thái Lan, ốc và các vật chủtạm thời sống dưới nước (chiếm đa số các trường hợp nhiễm) được cho là mang lượng ký sinh trùng thấp hơn (Eamsobhana, 2014). Trái lại, động vật chân bụng sống trênmặt đất tại Hawaii (được ăn vào cố ý hoặc vô ý) có thể chứa lượng ký sinh trùng trùng khổng lồ. Sự chênh lệch đáng kể số lượng bệnh nghiêm trọng ở Hawaii và các nước như Úc nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chẩn đoán và điều trị sớm bệnh NAS, trước khi gây ra tổn thương hệ thần kinh trung ương nghiêm trọng.

NAS đặt ra một thách thức chẩn đoán không nhỏ. Tiêu chuẩn vàng là tìm thấy ấu trùng trong dịch tủy sống hoặc mắt nhưng điều này rất hiếm. Các xét nghiệm miễn dịch khác nhau đã được phát triển trong các phòng thí nghiệm tham chiếu quốc tế (Wilkins et al., 2013); tuy nhiên, chưa có phương pháp nào được công nhận ở Hoa Kỳ. Do độ đặc hiệu cao, RTi-PCR đang trở thành tiêu chuẩn vàng để xác nhận tình trạng nhiễm bệnh NAS.

"Hiện nay, bệnh nhân mắc NAS được điều trị tốt nhất bằng cách thực hiện LP để giảm áp lực nội sọ và giảm đau đầu, sử dụng corticosteroid liều cao để giảm viêm trong hệ thống thần kinh trung ương và sử dụng albendazole để giảm thiểu tổn thương từ các ký sinh trùng di trú. Cần lưu ý rằng hiệu quả của albendazole phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của ký sinh trùng trong hệ thống thần kinh trung ương. Dựa trên các nghiên cứu trên động vật, sự tiêu diệt ký sinh trùng tối đa xảy ra trong giai đoạn tăng trưởng nhanh, từ 5 đến 14 ngày sau khi ăn phải (Prociv và Turner, 2018). Bởi vì xác chết của ký sinh trùngcó thể gia tăng tình trạng viêm, albendazole nên được sử dụng trong phạm vi tác dụng của corticosteroid ở các bệnh nhân có triệu chứng."

Hướng phát triển trong tương lai

Do sự hạn chế về dữ liệu về NAS ở người, các nghiên cứu đối chứng giả dược, ngẫu nhiên, mù đôi, nên được tiến hành để giải quyết nhiều câu hỏi liên quan đến chẩn đoán và điều trị. Các nghiên cứu như vậy có thể đòi hỏi sự hợp tác quốc tế đa trung tâm. Việc chậm trễ trong chẩn đoán rất phổ biến đối với NAS và có bằng chứng cho thấy điều trị sớm có thể cải thiện kết quả. Do đó, nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào cải thiện chẩn đoán sớm cũng như xác định cửa sổ điều trị (treatment window) trong sử dụng thuốc diệt giun sán. Các xét nghiệm phân tử nhạy hơn đối với dịch não tủy, máu và nước tiểu có thể giúp bác sĩ chẩn đoán sớm hơn và có thể ít xâm lấn hơn, do đó giảm đau đớn và di chứng kéo dài. Khi MRI đang được sử dụng ngày càng nhiều trong chẩn đoán NAS, một phân tích cập nhật về kết quả MRI ở bệnh nhân NAS sẽ có giá trị cao. Ngoài ra, các phương pháp MRI mới, tối tân hơn có thể cung cấp những manh mối chẩn đoán sớm hơn và đặc hiệu hơn và thậm chí có thể cung cấp thông tin về đáp ứng lâm sàng đối với quá trình điều trị.
(Hết)


Tài liệu tham khảo

1.Ansdell V and Wattanagoon Y (2018) Angiostrongylus cantonensis in travelers: clinical manifestations, diagnosis, and treatment. Current Opinion in Infectious Diseases 31, 399–408. [PubMed] [Google Scholar]

2.Aviram J and Samuelly-Leichtag G (2017) Efficacy of Cannabis-based medicines for pain management: a systematic review and meta-analysis of randomized controlled trials. Pain Physician 20, E755–E796. [PubMed] [Google Scholar]

3.Barratt J, Chan D, Sandaradura I, Malik R, Spielman D, Lee R, Marriott D, Harkness J, Ellis J and Stark D (2016) Angiostrongylus cantonensis: a review of its distribution, molecular biology and clinical significance as a human pathogen. Parasitology 143, 1087–1118. [PubMed] [Google Scholar]

4.Blair NF, Orr CF, Delaney AP and Herkes GK (2013) Angiostrongylus meningoencephalitis: survival from minimally conscious state to rehabilitation. The Medical Journal of Australia 198, 440–442. [PubMed] [Google Scholar]

5.Bloom AK and Ryan ET (2013) Albendazole In Magill AJ, Hill DR, Solomon T and Ryan ET (eds.), Hunter's Tropical Medicine and Emerging Infectious Disease, 9th Edn London: : W.B. Saunders, pp. 1088–1089. doi: 10.1016/B978-1-4160-4390-4.00223-X. [CrossRef] [Google Scholar]

6.Bowden D (1981) Eosinophilic meningitis in the New Hebrides: two outbreaks and two deaths. The American Journal of Tropical Medicine and Hygiene 30, 1141–1143. [PubMed] [Google Scholar]

7.Chau T, Thwaites G, Chuong L, Sinh D and Farrar J (2003) Headache and confusion: the dangers of a raw snail supper. The Lancet 361, 1866. [PubMed] [Google Scholar]

8.Chotmongkol V and Sawanyawisuth K (2002) Clinical manifestations and outcome of patients with severe eosinophilic meningoencephalitis presumably caused by Angiostrongylus cantonensis. The Southeast Asian Journal of Tropical Medicine and Public Health 33, 4. [PubMed] [Google Scholar]

9.Chotmongkol V, Sawanyawisuth K and Thavornpitak Y (2000) Corticosteroid treatment of eosinophilic meningitis. Clinical Infectious Diseases 31, 660–662. [PubMed] [Google Scholar]

10.Chotmongkol V, Sawadpanitch K, Sawanyawisuth K, Wilai SL and Limpawattana P (2006) Treatment of eosinophilic meningitis with a combination of prednisolone and mebendazole. The American Journal of Tropical Medicine and Hygiene 74, 1122–1124. [PubMed] [Google Scholar]

11.Chotmongkol V, Kittimongkolma S, Niwattayakul K, Intapan PM and Thavornpitak Y (2009) Comparison of prednisolone plus albendazole with prednisolone alone for treatment of patients with eosinophilic meningitis. The American Journal of Tropical Medicine and Hygiene 81, 443–445. [PubMed] [Google Scholar]

12.Cowie RH (2013a) Biology, systematics, life cycle, and distribution of Angiostrongylus cantonensis, the cause of Rat lungworm disease. Hawai'i Journal of Medicine & Public Health 72 (6 Suppl 2), 6–9. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

13.Cowie RH (2013b) Pathways for transmission of angiostrongyliasis and the risk of disease associated with them. Hawai'i Journal of Medicine & Public Health 72 (6 Suppl 2), 70–74. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

14.Cross JH (1978) Clinical manifestations and laboratory diagnosis of eosinophilic meningitis syndrome associated with angiostrongyliasis. The Southeast Asian Journal of Tropical Medicine and Public Health 9, 161–170. [PubMed] [Google Scholar]

15.Cruccu G and Truini A (2017) A review of neuropathic pain: from guidelines to clinical practice. Pain and Therapy 6, 35–42. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

16.Cui Y, Shen M and Meng S (2011) Lung CT findings of angiostrongyliasis cantonensis caused by Angiostrongylus cantonensis. Clinal Imaging 35, 180–183. [PubMed] [Google Scholar]

17.Diao Z, Wang J, Qi H, Li X, Zheng X and Yin C (2011) Treatment of angiostrongyliasis using a combination of albendazole and dexamethasone: the results of a retrospective and comparative study. Annals of Tropical Medicine & Parasitology 105, 65–69. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

18.Eamsobhana P (2014) Eosinophilic meningitis caused by Angiostrongylus cantonensis--a neglected disease with escalating importance. Tropical Biomedicine 31, 569–578. [PubMed] [Google Scholar]

19.Evans-Gilbert T, Lindo JF, Henry S, Brown P and Christie CDC (2014) Severe eosinophilic meningitis owing to Angiostrongylus cantonensis in young Jamaican children: case report and literature review. Paediatrics and International Child Health 34, 148–152. [PubMed] [Google Scholar]

20.Federspiel F, Skovmand S and Skarphedinsson S (2020) Eosinophilic meningitis due to Angiostrongylus cantonensis in Europe. International Journal of Infectious Diseases 93, 28–39. [PubMed] [Google Scholar]

21.Finnerup NB, Attal N, Haroutounian S, McNicol E, Baron R, Dworkin RH, Gilron I, Haanpaa M, Hansson P, Jensen TS, Kamerman PR, Lund K, Moore A, Raja SN, Rice AS, Rowbotham M, Sena E, Siddall P, Smith BH and Wallace M (2015) Pharmacotherapy for neuropathic pain in adults: systematic review, meta-analysis and updated NeuPSIG recommendations. The Lancet. Neurology 14, 162–173. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

22.Graeff-Teixeira C, da Silva ACA and Yoshimura K (2009) Update o­n eosinophilic meningoencephalitis and Its clinical relevance. Clinical Microbiology Reviews 22, 322–348. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

23.Guidelines (2018) Preliminary Guidelines for the Diagnosis and Treatment of Neuroangiostrongyliasis (Rat Lungworm Disease) in Hawaii. Hawaii State Department of Health; https://health.hawaii.gov/docd/files/2018/08/RLWD_Preliminary_Clinical_Guidelines_FINAL_082918.pdf. [Google Scholar]

24.Hochberg NS, Park SY, Blackburn BG, Sejvar JJ, Gaynor K, Chung H, Leniek K, Herwaldt BL and Effler PV (2007) Distribution of eosinophilic meningitis cases attributable to Angiostrongylus cantonensis, Hawaii. Emerging Infectious Diseases 13, 1675–1680. [PubMed] [Google Scholar]

25.Hochberg NS, Blackburn BG, Park SY, Sejvar JJ, Effler PV and Herwaldt BL (2011) Eosinophilic meningitis attributable to Angiostrongylus cantonensis infection in Hawaii: clinical characteristics and potential exposures. The American Journal of Tropical Medicine and Hygiene 85, 685–690. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

26.Hsu J-J, Chuang S-H, Chen C-H and Huang M-H (2009) Sacral myeloradiculitis (elsberg syndrome) secondary to eosinophilic meningitis caused by Angiostrongylus cantonensis. BMJ Case Reports. doi: doi: 10.1136/bcr.10.2008.1075. [PMC free article] [PubMed] [CrossRef] [Google Scholar]

27.Hughes PA, Magnet AD and Fishbain JT (2003) Eosinophilic meningitis: a case series report and review of the literature. Military Medicine 168, 817–821. [PubMed] [Google Scholar]

28.Hwang KP and Chen ER (1988) Larvicidal effect of albendazole against Angiostrongylus cantonensis in mice. The American Journal of Tropical Medicine and Hygiene 39, 191–195. [PubMed] [Google Scholar]

29.Hwang KP and Chen ER (1991) Clinical studies o­n angiostrongyliasis cantonensis among children in Taiwan. The Southeast Asian Journal of Tropical Medicine and Public Health 22(suppl.), 194–199. [PubMed] [Google Scholar]

30.Jindrák K (1968) Early migration and pathogenicity of Angiostrongylus cantonensis in laboratory rats. Annals of Tropical Medicine and Parasitology 62, 506–517. [PubMed] [Google Scholar]

31.Jitpimolmard S, Sawanyawisuth K, Morakote N, Vejjajiva A, Puntumetakul M, Sanchaisuriya K, Tassaneeyakul W, Tassaneeyakul W and Korwanich N (2007) Albendazole therapy for eosinophilic meningitis caused by Angiostrongylus cantonensis. Parasitology Research 100, 1293–1296. doi: 10.1007/s00436-006-0405-7 [PubMed] [CrossRef] [Google Scholar]

32.Ju ZY, Wang K, Cui HS, Yao Y, Liu SM, Zhou J, Chen TY and Xia J (2017) Acupuncture for neuropathic pain in adults. The Cochrane Database of Systematic Reviews 2017. doi: 10.1002/14651858.CD012057.pub2. [PMC free article] [PubMed] [CrossRef] [Google Scholar]

33.Kuberski T and Wallace GD (1979) Clinical manifestations of eosinophilic meningitis due to Angiostrongylus cantonensis. Neurology 29, 1566–1570. [PubMed] [Google Scholar]

34.Kwon E, Ferguson TM, Park SY, Manuzak A, Qvarnstrom Y, Morgan S, Ciminera P and Murphy GS (2013) A severe case of Angiostrongylus eosinophilic meningitis with encephalitis and neurologic sequelae in Hawai'i. Hawai'i Journal of Medicine and Public Health 72, 41–45. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

35.Lai C-H, Yen C-M, Chin C, Chung H-C, Kuo H-C and Lin H-H (2007) Eosinophilic meningitis caused by Angiostrongylus cantonensis after ingestion of raw frogs. The American Journal of Tropical Medicine and Hygiene 76, 399–402. [PubMed] [Google Scholar]

36.Lan KP, Wang CJ, Lai SC, Chen KM, Lee SS, Hsu JD and Lee HH (2004) The efficacy of therapy with albendazole in mice with parasitic meningitis caused by Angiostrongylus cantonensis. Parasitology Research 93, 311–317. [PubMed] [Google Scholar]

37.Leone S, De Marco M, Ghirga P, Nicastri E, Esposito M and Narciso P (2007) Eosinophilic meningitis in a returned traveler from Santo Domingo: case report and review. Journal of Travel Medicine 14, 407–410. [PubMed] [Google Scholar]

38.Lo Re III, V and Gluckman SJ (2001) Eosinophilic meningitis due to Angiostrongylus cantonensis in a returned traveler: case report and review of the literature. Clinical Infectious Diseases 33, 1619. [PubMed] [Google Scholar]

39.Martins YC, Tanowitz HB and Kazacos KR (2015) Central nervous system manifestations of Angiostrongylus cantonensis infection. Acta Tropica 141, 46–53. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

40.McAuliffe L, Fortin Ensign S, Larson D, Bavaro M, Yetto J, Cathey M, Mukaigawara M, Narita M, Ohkusu K, Quast T and Volk C (2019) Severe CNS angiostrongyliasis in a young marine: a case report and literature review. The Lancet Infectious Diseases 19, e132–e142. [PubMed] [Google Scholar]

41.Meng H, Johnston B, Englesakis M, Moulin DE and Bhatia A (2017) Selective cannabinoids for chronic neuropathic pain: a systematic review and meta-analysis. Anesthesia and Analgesia 125, 1638–1652. [PubMed] [Google Scholar]

42.Murphy GS and Johnson S (2013) Clinical aspects of Eosinophilic Meningitis and Meningoencephalitis caused by Angiostrongylus cantonensis, the Rat lungworm. Hawai'i Journal of Medicine & Public Health 72, 35–40. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

43.New D, Little MD and Cross J (1995) Angiostrongylus cantonensis infection from eating raw snails. N Engl J Med 332, 1105–1106. [PubMed] [Google Scholar]

44.Oehler E, Ghawche F, Delattre A, Berberian A, Levy M and Valour F (2014) Angiostrongylus cantonensis eosinophilic meningitis: a clinical study of 42 consecutive cases in French Polynesia. Parasitology International 63, 544–549. [PubMed] [Google Scholar]

45.Pien F and Pien B (1999) Angiostrongylus cantonensis Eosinophilic Meningitis. Int J Infect Dis 3, 161–163. [PubMed] [Google Scholar]

46.Prociv P and Turner M (2018) Neuroangiostrongyliasis: the “subarachnoid phase” and Its implications for anthelminthic therapy. The American Journal of Tropical Medicine and Hygiene 98, 353–359. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

47.Punyagupta S, Bunnag T and Juttijudata P (1990) Eosinophilic meningitis in Thailand. Clinical and epidemiological characteristics of 162 patients with myeloencephalitis probably caused by Gnathostoma spinigerum. J Neurol Sci 96, 241–256. [PubMed] [Google Scholar]

48.Qvarnstrom Y, Xayavong M, da Silva ACA, Park SY, Whelen AC, Calimlim PS, Sciulli RH, Honda SAA, Higa K, Kitsutani P, Chea N, Heng S, Johnson S, Graeff-Teixeira C, Fox LM and da Silva AJ (2016) Real-Time polymerase chain reaction detection of Angiostrongylus cantonensis DNA in cerebrospinal fluid from patients with Eosinophilic Meningitis. The American Journal of Tropical Medicine and Hygiene 94, 176–181. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

49.Rosenthal J (2009) Climate change and the geographic distribution of infectious diseases. Ecohealth 6, 489–495. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

50.Sawanyawisuth K and Sawanyawisuth K (2008) Treatment of angiostrongyliasis. Transactions of the Royal Society of Tropical Medicine and Hygiene 102, 990–996. [PubMed] [Google Scholar]

51.Sawanyawisuth K, Limpawattana P, Busaracome P, Ninpaitoon B, Chotmongkol V, Intapan PM and Tanawirattananit S (2004) A 1-week course of corticosteroids in the treatment of eosinophilic meningitis. The American Journal of Medicine 117, 802–803. [PubMed] [Google Scholar]

52.Sawanyawisuth K, Chindaprasirt J, Senthong V, Limpawattana P, Auvichayapat N, Tassniyom S, Chotmongkol V, Maleewong W and Intapan PM (2013) Clinical manifestations of Eosinophilic Meningitis Due to infection with Angiostrongylus cantonensis in children. The Korean Journal of Parasitology 51, 735–738. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

53.Schmutzhard E, Boongird P and Vejjajiva A (1988) Eosinophilic meningitis and radiculomyelitis in Thailand, caused by CNS invasion of Gnathostoma spinigerum and Angiostrongylus cantonensis. Journal of Neurology, Neurosurgery, and Psychiatry 51, 80–87. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

54.Tsai HC, Lee SS, Huang CK, Yen CM, Chen ER and Liu YC (2004) Outbreak of eosinophilic meningitis associated with drinking raw vegetable juice in southern Taiwan. The American Journal of Tropical Medicine and Hygiene 71, 222–226. [PubMed] [Google Scholar]

55.Tsai H-C, Lai P-H, Sy C-L, Lee SS-J, Yen C-M, Wann S-R and Chen Y-S (2011) Encephalitis caused by Angiostrongylus cantonensis after eating raw frogs mixed with wine as a health supplement. Internal Medicine 50, 771–774. [PubMed] [Google Scholar]

56.Wan K-S and Weng W-C (2004) Eosinophilic meningitis in a child raising snails as pets. Acta Tropica 90, 51–53. [PubMed] [Google Scholar]

57.Wang Q-P, Lai D-H, Zhu X-Q, Chen X-G and Lun Z-R (2008) Human angiostrongyliasis. The Lancet Infectious Diseases 8, 621–630. [PubMed] [Google Scholar]

58.Wilkins PP, Qvarnstrom Y, Whelen AC, Saucier C, da Silva AJ and Eamsobhana P (2013) The current status of laboratory diagnosis of Angiostrongylus cantonensis infections in humans using serologic and molecular methods. Hawai'i Journal of Medicine & Public Health 72, 55–57. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

59.Williams DM (2018) Clinical pharmacology of corticosteroids. Respiratory Care 63, 655–670. [PubMed] [Google Scholar]

60.Yang B, Yang L, Chen Y and Lu G (2019) Magnetic resonance imaging findings and clinical manifestations in cerebral angiostrongyliasis from Dali, China. Brain and Behavior 9, e01361. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

61.Yii C-Y (1976) Clinical observations o­n eosinophilic meningitis and meningoencephalitis caused by Angiostrongylus cantonensis on Taiwan. The American Journal of Tropical Medicine and Hygiene 25, 233–249. [PubMed] [Google Scholar]

62.York EM, Creecy JP, Lord WD and Caire W (2015) Geographic range expansion for Rat lungworm in North America. Emerging Infectious Diseases 21, 1234–1236. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

63.Nguồn:Guidelines for the diagnosis and treatment of neuroangiostrongyliasis: updated recommendations - PMC (nih.gov)

 

Ngày 28/03/2023
PGS.TS. Hồ Văn Hoàng, CN. Nguyễn Thái Hoàng  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích