Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 22/11/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 4 1 7 4 0 0 8
Số người đang truy cập
5 1 1
 Chuyên đề
Nguồn ảnh: Credit MICHAEL ABBEY / SCIENCE PHOTO LIBRARY
Leishmania donovani: Loài ký sinh trùng đơn bào gây bệnh truyền nhiễm ở người đang nổi tại Việt Nam? (Phần 1)

Trước tình hình Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) đang phải ứng phó với dịch bệnh do Leishmania spp. chưa từng có ở Ethiopia. Theo thông báo chính thức của TCYTTG ngày 15/12/2023 cho biết họ đang nỗ lực hành động nhanh chóng để ứng phó với đợt bùng phát dịch bệnh do Leishmania spp. trên da tại Somali của Ethiopia.

TCYTTG nói rõ ca bệnh do Leishmaniaspp. trên da đầu tiên ở vùng Somali xuất hiện hồi tháng 7-11/2023 đã có thêm 1.023 trường hợp được báo cáo. Đáng chú ý, vùng Somali cũng là một trong 6 điểm nóng lưu hành dịch bệnh do Leishmania spp. ở nội tạng tại Ethiopia. Điều này cho thấy đang có lỗ hổng y tế nghiêm trọng trong việc giám sát dịch bệnh truyền nhiễm tại các vùng Somali trong việc ngăn chặn các ca bệnh bùng phát và lây lan mạnh.

Trước tình trạng này, TCYTTG đã khởi xướng một Chương trình Xây dựng năng lực toàn diện cho đội ngũ y tế và chuyên gia các phòng thí nghiệm ở những khu vực có dịch bệnh ở vùng Somalia. Khóa tập huấn tập trung vào kỹ năng chẩn đoán và quản lý các ca mắc bệnh Leishmania trên da, dựa trên hướng dẫn của WHO. Quyền đại diện của Tổ chức Y tế thế giới tại Ethiopia, bà Nonhlanhla Dlamini, cho biết sáng kiến đào tạo này không chỉ giúp giải quyết thách thức trước mắt của đợt bùng phát dịch bệnh hiện nay mà còn góp phần thu hẹp khoảng cách đào tạo trong khu vực. Việc phát hiện sớm, chẩn đoán chính xác và quản lý hiệu quả bệnh Leishmania trên da sẽ giúp phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh tốt hơn.Ethiopia đang phải đối mặt với gánh nặng kép cả Leishmania spp. trên da và nội tạng. Mỗi năm ở nước này có tới 20.000-40.000 bệnh nhân mắc bệnh Leishmania spp. trên da. Đây là bệnh do một loại ký sinh trùng đơn bào gây ra, lây truyền qua ruồi cát và gây ra tổn thương da cục bộ, tổn thương da niêm mạc hoặc tổn thương da lan tỏa.

MỘT SỐ NÉT QUAN TRỌNG ĐÁNG CHÚ Ý

·Bệnh do Leishmania spp. có mặt rải rác ở các khu vực trên toàn thế giới và được truyền qua vật chủ trung gian là muỗi cát;

·Các ký sinh trùng có thể vẫn còn cục bộ trong da (bệnh do leishmania da), lan truyền đến niêm mạc (niêm mạc niêm mạc), hoặc lan truyền đến gan, lá lách, và tủy xương (bệnh do leishmania nội tạng).

·Chẩn đoán bằng cách sử dụng các nhuộm Wright-Giemsa hoặc nhuộm Giêm sa, nuôi cấy hoặc phương pháp PCR; các xét nghiệm huyết thanh học có thể giúp chẩn đoán bệnh do leishmania nội tạng ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch nhưng không có giá trị ở nhiều bệnh nhân AIDS hoặc bệnh do leishmania da hoặc niêm mạc.

·Điều trị tổn thương da nhỏ, không biến chứng với nhiệt nóng hoặc liệu pháp áp lạnh tại chỗ hoặc với paromomycin tại chỗ hoặc natri stibogluconat intralesional ở bên ngoài;

·Lựa chọn điều trị toàn thân đối với bệnh do Leishmania spp. phức tạp ở da, niêm mạc và nội tạng bao gồm Liposomal Amphotericin B, Miltefosine và Amphotericin B deoxycholate; Natri stibogluconate hoặc Meglumine antimonate có thể được dùngg nếu nhiễm trùng mắc phải ở những khu vực mà có khả năng dễ nhiễm loài Leishmania spp. gây nhiễm trùng.

·Tình trạng kháng thuốc đối với các thuốc kháng sinh phổ biến ở Ấn Độ và các nước lân cận và đang nổi lên ở các khu vực khác.

GIỚI THIỆU

Muỗi cát đóng vai trò trung gian truyền nhiều loại tác nhân gây bệnh khác nhau ở người (sandfly-borne diseases [SBD]/sandfly-transmitted diseases[STD]), đặc biệt là gồm virus và ký sinh trùng đơn bào. Trong đó, virus lây truyền thông qua muỗi cát gồm virus trong nhóm Bunyavirus, Phleboviruses và ít nhất có 45 loại virus có liên quan đến bệnh truyền nhiễm trên toàn cầu. Một số bệnhPhleboviruses truyền qua muỗi, hay ve (Rift Valley fever, Crimean-Congo haemorrhagic fever). Các bệnh truyền nhiễm liên quan khác nhau từ muỗi cát phân bố khác nhau tùy thuộc vùng địa lý có lưu hành tác nhân gây bệnh đó. Vì muỗi cát kích thước nhỏ, có điều kiện sống thuận lợi tại các vùng nhiệt đới, nóng ẩm, tối, nhiều chất hữu cơ đóng vai trò như thức ăn của ấu trùng và nơi đẻ của chúng là hốc cây, vùng đất do động vật đào và dưới đám lá chết. Muỗi cát cái có miệng sắc nhọn dùng để hút máu, trong khi con đực chỉ lấy vùng ẩm có sẵn nguồn thức ăn và hút mồ hôi mà thôi.

DỊCH TỄ HỌC VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ

Vật chủ người, động vật sống gần người (chó và các gặm nhấm) hoặc động vật hoang dã, tùy từng nơi và từng loài Leishmania spp. Trung gian truyền bệnh là muỗi cát Phlebotomus là loại muỗi cát rất nhỏ, kích thước khoảng 3mm, chỉ muỗi cái hút máu vật chủ và đốt rất đau. Có khoảng 30 loài muỗi cát Phlebotomusspp. Muỗi đốt người cả trong và ngoài nhà, thời gian hoạt động chủ yếu là từ lúc chiều tối đến sáng hôm sau.


Hình 1. Bản đồ phân bố muỗi cát phân theo giống và lòai/dưới loài. Các muỗi cát có sự phân bố rộng trên toàn cầu từ 50° vĩ độ Bắc đến 40° vĩ độ nam,
ngoại trừ New Zealand và các đảo Thái Bình Dương.Trên bản đồ, tính chính xác đến giống/ dưới loài liệt kê dựa trên sự có mặt của chúng theo phân vùng địa động học:
Palearctic (màu tím), Nearctic (đỏ), Neotropic (xanh đen), Afrotropic (xanh lá cây), Malagasy (màu cam), Australia (xanh nhạt), Indian (vàng)
Nguồn: NIAID, 2022.

Bệnh do Leishmania spp. phân bố ở hơn 90 nướcở vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và miền Nam châu Âu, thường phổ biến hơn ở nông thôn hơn thành thị, nhưng nó cũng được tìm thấy ở vùng ngoại ô của một số thành phố. Sự biến đổi khí hậu và môi trường có thể làm mở rộng phạm vi hoạt động của vector truyền bệnh dẫn đến sự lan rộng của bệnh do Leishmania spp. tìm thấy trên mọi châu lục, ngoại trừ Australia và Nam Cực.

Bệnh do Leishmania spp. thể nội tạng hoặc Kala-Azar chiếm hầu hết ca bệnh (>90%), phân bố ở các nước Ấn Độ, Bangladesh, Nepal, Sudan, Ethiopia và Brazil. Bệnh thường xuyên xảy ra dịch, gây ra tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao ở các nước Đông Phi (Ethiopia, Kenya, Nam Sudan và Sudan). Bệnh do Leishmania ở da gặp nhiều ở Afghanistan, Algeira, Iran, Saudi Arabia, Syria, Brazil, Colombia, Peru, Bolivia. Các nước khác, bao gồm cả miền nam châu Âu thì ít gặp hơn; Bệnh do Leishmania spp.thể ở da cũng đã gây ra dịch bệnh lớn ở Afghanistan và Syria; Bệnh do Leishmania spp. ở da và niêm mạc gần 90% các trường hợp xảy ra ở Bolivia, Brazil và Peru.


Hình 2. Phân bố được báo cáo và dự đoán của bệnh do Leishmania ở vùng Old World.
(A) Bằng chứng đông thuận về sự có mặt của bệnh từ màu xanh lá cây (đồng thuận hoàn toàn về sự vắng mặt: −100%) đến màu tím (đồng thuận hoàn toàn về sựu có mặt của bệnh: +100%).
Các chấm màu xanh da trời chỉ ra sự có mặt xuất hiện hay trọng tâm xuất hiện trong các vùng polygon nhỏ;
(B) Nguy cơ tiên đoán về bệnh do Leishmania spp. thể da từ màu xanh lá cây (khả năng xuất hiện thấp) đến màu tím (khả năng xuất hiện cao).

Leishmania lưu hành rộng rãi khắp các châu lục (trừ Australia), nhất là vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Bệnh do Leishmania gây ra có thể trở thành những vụ dịch lớn như bệnh Kala-Azar ở Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan. Bệnh Kala-Azar trẻ em có ở Địa Trung Hải, Tây bắc Trung Quốc, vùng Cận Đông và nhiều nước ở châu Mỹ, tuy nhiên loại bệnh này thường xảy ra tản mạn, rải rác ít khi thành dịch lớn mặc dù bệnh có ổ bệnh thiên nhiên. Bệnh do Leishmania spp. thể phủ tạng Đông Phi có ở  Sudan, Kenya… bệnh thường tản mát nhưng đôi khi phát thành dịch lớn, bệnh cũng có ổ bệnh thiên nhiên.   

Qua một số nghiên cứu cho thấy bệnh do Leishmania spp. gây ra hay gặp ở những người suy giảm miễn dịch bẩm sinh hay mắc phải (nhiễm HIV, HIV/AIDS). Thời kỳ ủ bệnh chung khoảng 3 tháng (3 tuần đến 18 tháng). Bệnh không được điều trị sẽ có tử vong cao (ở người lớn 90-95%, ở trẻ em 75-85%) trong vòng 3-20 tháng. Nếu được phát hiện, điều trị kịp thời thì nguy cơ tử vong giảm < 10%.

Tại Việt Nam, đã phát hiện nhiều bệnh nhân nhiễm Leishmania spp. tại các cơ sở y tế của tỉnh Quảng Ninh, Huế, thành phố Hồ Chí Minh năm 2001-2018. Tại một số nơi, các loài động vật bị bệnh (các loài gậm nhấm, chó,..) duy trì nguồn lây nhiễm trong tự nhiên. Tuy nhiên, ở một số nơi trên thế giới, người bệnh là nguồn lây chủ yếu và đây là hình thức lây truyền người, muỗi, người, ở những vùng này, điều trị triệt để các bệnh nhân có thể giúp kiểm soát sự lây lan của ký sinh trùng đơn bào. Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới, có hệ động vật thuộc loài gậm nhấm, loài có nanh, động vật có vú và quần thể muỗi cát phong phú. Thêm vào đó số người suy giảm miễn dịch mắc phải (do HIV hoặc bệnh lý nền mạn tính, do dùng thuốc kéo dài) ngày một tăng. Do vậy khả năng tỉ lệ nhiễm Leishmania sẽ càng gia tăng nếu có mầm bệnh phát tán.


Hình 3. Tình hình lưu hành bệnh do Leishmaniaspp. thể da trên toàn cầu| Nguồn: WHO, 2020

Muỗi cát cái là trung gian truyền Leishmania cho súc vật gồm các loài gậm nhấm (chuột), loài có nanh (chó, cáo, mèo…), nhiều động vật có vú trong đó có người. Muỗi cát có nhiều giống và nhiều loài có vai trò gây bệnh như Phlebotomus (AnaPhlebotomus) stantoni, Ph. argentipes, Sergentomyia (Parrotomyia) baraudi, S.(P.) brevicaulis, S.(neophlebotomus) iyengari, S.(N.) perturbans, S.(N.) silvatica, S.(N.) tonkinensis, S.bailyi, S.morini.

Ngoài ra, Leishmania spp. còn có thể lây truyền bằng nhiều con đường khác như dùng chung kim tiêm, truyền máu, nhiễm bẩm sinh (mẹ truyền cho con qua nhau thai), sinh hoạt tình dục không an toàn, mắc phải trong phòng xét nghiệm, người truyền cho người…

Với hơn 90 loài muỗi cát (phlebotomine sandflies) có thể lây truyền 20 loài Leishmania spp. khác nhau, gây nên một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm với số ca mới mỗi năm là 700.000-1 triệu ca, nhiều biến chứng và di chứng, hoại tử nhiều mô và cơ quan cơ thể người, trong đó đặc biệt là thể phủ tạng hay bệnh Kala-Azar có thể tử vong trên 95% số ca & ở các nước Đông Nam Á được xem có lưu hành đầy đủ thể da, da niêm mạc, phủ tạng (WHO, 2020). Ngoài ra, hình thái lâm sàng trên da-niêm mạc của thể bệnh do Leishmaniaspp. đôi khi khó phân biệt với bệnh Whitmore do vi khuẩn gram âm Burkholderia Pseudomallei và bệnh do bào tử nấm đen Mucormycetes.

Gần đây, một nghiên cứu đa trung tâm về điều tra muỗi cát (Diptera: Psychodidae) và thực trạng nhiễm Flavivirus, Leishmania spp. tại 6 tỉnh miền Bắc Việt Nam đã đóng góp quan trọng dữ liệu về phân bố dịch tễ của ít nhất 5 giống và 13 loài muỗi cát, trung gian truyền bệnh, xác định mang hai tác nhân virus và ký sinh trùng đơn bào gây bệnh ở người mở ra định hướng nghiên cứu mở rộng hơn trong tương lai, giúp các nhà dịch tễ học, côn trùng học, sinh học & sinh học phân tử và nhà lâm sàng truyền nhiễm thêm bệnh sử, nhận ra thêm căn nguyên bệnh truyền nhiễm đang nổi tại Việt Nam, nhất là khi nhiệt độ trái đất ấm dần lên và nhiệt độ tăng 1,5-1,70C và tăng quần thể dân di biến động giữa các nước láng giềng và vùng bệnh lưu hành.

          Bên cạnh đó còn giúp tăng cường chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời, giảm biến chứng, phục hồi thẩm mỹ, giảm di chứng và tử vong thấp nhất cho bệnh nhân, nhất là khi quần thể chó và lợn dịch chuyển từ các vùng lưu hành sang các vùng khác.Bệnh gặp ở các quốc gia vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và miền Nam châu Âu và được xem như là một bệnh nhiệt đới đang bị lãng quên (NTD). Bệnh do Leishmania spp. được lan truyền qua vết cắn của muỗi cát Phlebotomus. Ở người, có nhiều hình thức khác nhau của bệnh, phổ biến nhất là thể bệnh ở da, gây lở loét da và nội tạng, làm ảnh hưởng đến nhiều nội tạng (lách, gan và tủy xương).

HÌNH THÁI KÝ SINH TRÙNG ĐƠN BÀO

- Dạng amastigotes là những tế bào nhỏ hình cầu, không roi, đường kính 2-4 μm, gặp trong tế bào của hệ võng mô, các đơn bào, tổ chức ở da, niêm mạc hoặc ở các cơ quan nội tạng của vật chủ có xương sống, kể cả con người và trong nuôi cấy tế bào;

- Dạng promastigotes là tế bào thon dài, mỏng, có roi, kích thước từ 5-14μm x 1,5-3,5μm, là dạng gây nhiễm, gặp ở trung gian truyền bệnh và trong môi trường nuôi cấy;

- Có hơn 20 loài Leishmaniaspp. Phân biệt các loài Leishmania spp. không dựa vào sự khác biệt về hình thái mà trên cơ sở đặc điểm địa lý, sinh học và lâm sàng. Hiện nay, được hỗ trợ thêm bởi các tiêu chuẩn về sinh hóa và cấu trúc (enzyme, đoạn gen, phân tích DNA…) người ta phân biệt được các loài gây bệnh ở người như sau:

L.donovani, L.infantum, L.chagasi: gây bệnh ở nội tạng.

L. tropica, L.major, L.mexicana: gây bệnh ở ngoài da.

L.braziliensis: gây bệnh ở da và niêm mạc.

(còn nữa) --> Tiếp theo Phần 2: Leishmania donovani: Loài ký sinh trùng đơn bào gây bệnh truyền nhiễm ở người đang nổi tại Việt Nam?


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Aronson N, Herwaldt BL, Libman M, et al: Diagnosis and treatment of leishmaniasis: Clinical Practice Guidelines by the Infectious Diseases Society of America (IDSA) and the American Society of Tropical Medicine and Hygiene (ASTMH). Clin Infect Dis 63 (12):e202-e264, 2016.

2.Centers for Disease Control and Prevention (CDC): Resources for Health Professionals.

3.Steverding D. The history of leishmaniasis. Parasit Vectors. 2017 Feb 15;10(1):82. 

4.Zink AR, Spigelman M, Schraut B, Greenblatt CL, Nerlich AG, Donoghue HD. Leishmaniasis in ancient Egypt and Upper nubia. Emerg Infect Dis. 2006 Oct;12(10):1616-7. 

5.Claborn DM. The biology and control of leishmaniasis vectors. J Glob Infect Dis. 2010 May;2(2):127-34. 

6.Handler MZ, Patel PA, Kapila R, Al-Qubati Y, Schwartz RA. Cutaneous and mucocutaneous leishmaniasis: Differential diagnosis, diagnosis, histopathology, and management. J Am Acad Dermatol. 2015 Dec;73(6):911-26; 927-8. 

7.Torres-Guerrero E, Quintanilla-Cedillo MR, Ruiz-Esmenjaud J, Arenas R. Leishmaniasis: a review. F1000Res. 2017;6:750. 

8.Handman E, Bullen DV. Interaction of Leishmania with the host macrophage. Trends Parasitol. 2002 Aug;18(8):332-4. 

9.Rogers ME, Chance ML, Bates PA. The role of promastigote secretory gel in the origin and transmission of the infective stage of Leishmania mexicana by the sandfly Lutzomyia longipalpis. Parasitology. 2002 May;124(Pt 5):495-507. 

10.de Vries HJ, Reedijk SH, Schallig HD. Cutaneous leishmaniasis: recent developments in diagnosis and management. Am J Clin Dermatol. 2015 Apr;16(2):99-109. 

11.Hosseinzadeh M, Omidifar N, Lohrasb MH. Use of fine needle aspiration cytology in the diagnosis of cutaneous leishmaniasis: a comparison with the conventional scraping method. Trop Doct. 2012 Apr;42(2):112-3. 

12.Sousa AQ, Pompeu MM, Frutuoso MS, Lima JW, Tinel JM, Pearson RD. Press imprint smear: a rapid, simple, and cheap method for the diagnosis of cutaneous leishmaniasis caused by Leishmania (Viannia) braziliensis. Am J Trop Med Hyg. 2014 Nov;91(5):905-7.

13.Tofighi Naeem A, Mahmoudi S, Saboui F, Hajjaran H, Pourakbari B, Mohebali M, Zarkesh MR, Mamishi S. Clinical Features and Laboratory Findings of Visceral Leishmaniasis in Children Referred To Children Medical Center Hospital, Tehran, Iran during 2004-2011. Iran J Parasitol. 2014 Mar;9(1):1-5. 

14.Amato VS, Tuon FF, Siqueira AM, Nicodemo AC, Neto VA. Treatment of mucosal leishmaniasis in Latin America: systematic review. Am J Trop Med Hyg. 2007 Aug;77(2):266-74. 

15.Moore EM, Lockwood DN. Treatment of visceral leishmaniasis. J Glob Infect Dis. 2010 May;2(2):151-8.

16.Alvar J, Vélez ID, Bern C, Herrero M, Desjeux P, Cano J, Jannin J, den Boer M., WHO Leishmaniasis Control Team. Leishmaniasis worldwide and global estimates of its incidence. PLoS o­ne. 2012;7(5):e35671. 

17.Berman JD, Badaro R, Thakur CP, Wasunna KM, Behbehani K, Davidson R, Kuzoe F, Pang L, Weerasuriya K, Bryceson AD. Efficacy and safety of liposomal amphotericin B (AmBisome) for visceral leishmaniasis in endemic developing countries. Bull World Health Organ. 1998;76(1):25-32.

18.Sundar S, Jha TK, Thakur CP, Engel J, Sindermann H, Fischer C, Junge K, Bryceson A, Berman J. Oral miltefosine for Indian visceral leishmaniasis. N Engl J Med. 2002 Nov 28;347(22):173

19.Abongomera C, Gatluak F, Buyze J, Ritmeijer K. A Comparison of the Effectiveness of Sodium Stibogluconate Monotherapy to Sodium Stibogluconate and Paromomycin Combination for the Treatment of Severe Post Kala Azar Dermal Leishmaniasis in South Sudan - A Retrospective Cohort Study. PLoS o­ne. 2016;11(9):e0163047.

20.Abongomera C, Diro E, Vogt F, Tsoumanis A, Mekonnen Z, Admassu H, Colebunders R, Mohammed R, Ritmeijer K, van Griensven J. The Risk and Predictors of Visceral Leishmaniasis Relapse in Human Immunodeficiency Virus-Coinfected Patients in Ethiopia: A Retrospective Cohort Study. Clin Infect Dis. 2017 Oct 30;65(10):1703-1710. 

 

Ngày 19/02/2024
TS.BS. Huỳnh Hồng Quang
(Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn)
 

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích