Home TRANG CHỦ Chủ nhật, ngày 08/09/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 3 5 0 5 4 9 3
Số người đang truy cập
2 1 5
 Chuyên đề
Phòng chống véc tơ sốt rét: Thực trạng, khoảng trống phòng chống và các công cụ mới (Phần 1)

Các biện pháp can thiệp dựa trên hoá chất diệt muỗi, chẳng hạn như màn tẩm hóa chất tồn lưu lâu dài (LLINs) và phun tồn lưu trong nhà (IRS), vẫn là xương sống của chương trình phòng chống véc tơ sốt rét. Những biện pháp can thiệp này nhắm vào những loài muỗi thích đốt máu và nghỉ ngơi trong nhà nhưng có khả năng hạn chế trong việc ngăn chặn sự lây truyền xảy ra ngoài trời hoặc ngoài giờ ngủ thông thường.

Ở các khu vực có mức độ lưu hành thấp, việc loại trừ bệnh sốt rét sẽ yêu cầu giải quyết những khoảng trống trong kiểm soát véc tơ và tìm ra các công cụ bổ sung. Các công cụ phòng chống véc tơ sốt rét hiện nay tập trung vào nhóm đối tượng có nguy cơ cao, chẳng hạn như người tị nạn, quân nhân hoặc người đi rừng, ngủ rẫy. Trong các hoạt động đi rừng và ngủ rẫy, nhóm đối tượng thường phải đối mặt với nguy cơ cao lây nhiễm sốt rét do tính chất công việc, dễ phơi nhiễm với muỗi mang mầm bệnh. Mặc dù đã có những nỗ lực phòng chống sốt rét, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều khoảng trống trong việc đảm bảo an toàn sức khỏe cho nhóm đối tượng này, đặc biệt là khi họ hoạt động trong môi trường rừng sâu.


Hình 1. Những khoảng trống trong phòng chống véc tơ sốt rét

Thực trạng các biện pháp phòng chống véc tơ hiện tại

Phòng chống véc tơ, một cách hiệu quả cao để giảm lây truyền bệnh sốt rét, là một phần quan trọng của chiến lược phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét.Các biện pháp can thiệp kiểm soát véc tơ sốt rét được khuyến nghị triển khai trên quy mô lớn là cấp màn tẩm hóa chất diệt côn trùng (ITNs) và phun tồn lưu trong nhà (IRS) để phòng chống véc tơ sốt rét ở hầu hết các khu vực có nguy cơ mắc bệnh sốt rét. Việc lựa chọn sản phẩm cụ thể trong các loại hình can thiệp rộng rãi này phải dựa trên dữ liệu kháng hoá chất diệt côn trùng cho các khu vực mục tiêu và các thông tin khác được tổng hợp trong quá trình thực hiện các hoạt động ưu tiên cấp địa phương. Sau khi đạt được mức độ bao phủ tối ưu của một trong những biện pháp can thiệp này, các biện pháp can thiệp bổ sung có thể được xem xét triển khai tùy thuộc vào đặc điểm cụ thể của dân số, tình hình hoặc bối cảnh. Chúng bao gồm các biện pháp bảo vệ cá nhân với mục đích chính là bảo vệ người dùng cá nhân, mặc dù chúng có thể có một số tác động chưa được chứng minh khi triển khai ở cấp cộng đồng.

Bảng 1. Các hướng dẫn về biện pháp phòng chống véc tơ sốt rét hiện nay

Các hướng dẫn về biện pháp phòng chống véc tơ sốt rét hiện nay

Các can thiệp chính

Màn tẩm hoá chất

(Insecticide-treatednets-ITNs)

Màn tẩm hoá chất tồn lưu lâu (LLINs) chỉ chứa pyrethroid đã được WHO xác nhận đủ tiêu chuẩn được khuyến nghị triển khai như một biện pháp can thiệp cốt lõi ở tất cả các khu vực lưu hành bệnh sốt rét. Màn tẩm pyrethroid-PBO đã được WHO khuyến nghị triển khai có điều kiện thay vì LLINs chỉ chứa pyrethroid trong đó (các) vectơ sốt rét chính biểu hiện kháng pyrethroid.

Được khuyến khích mạnh mẽ như một biện pháp can thiệp có giá trị sức khỏe cộng đồng, mức độ bằng chứng: chắc chắn cao.

Phun tồn lưu trong nhà

(Indoor residual spraying-IRS)

 

IRS đã được WHO thẩm định sơ bộ, được khuyến cáo như một biện pháp can thiệp cốt lõi ở tất cả các khu vực lưu hành bệnh sốt rét. DDT chưa được sơ tuyển; nó có thể được sử dụng cho IRS nếu không có giải pháp thay thế hiệu quả và hiệu quả tương đương, và nếu nó được sử dụng phù hợp với Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy.

Được khuyến khích mạnh mẽ như một biện pháp can thiệp có giá trị sức khỏe cộng đồng, mức độ bằng chứng: chắc chắn thấp.

Các can thiệp bổ sung

Hoá chất diệt bọ gậy (Larviciding)

Nên sử dụng thường xuyên hoá chất sinh học hoặc hóa học cho các vùng nước ở những khu vực đã đạt được độ che phủ cao với biện pháp can thiệp cốt lõi, nơi có ít môi trường sống dưới nước của (các) vectơ sốt rét chính, cố định và có thể tìm thấy, và nơi áp dụng biện pháp này vừa khả thi vừa tiết kiệm chi phí. Được khuyến nghị có điều kiện như một biện pháp can thiệp có giá trị sức khỏe cộng đồng, mức độ bằng chứng: chắc chắn thấp.

Các biện pháp bảo vệ cá nhân

Kem xua bôi tại chỗ

(Topical repellents)

Việc triển khai kem xua bôi tại chỗ không được khuyến khích như một biện pháp can thiệp y tế công cộng; tuy nhiên, kem xua bôi tại chỗ có thể có ích như một biện pháp can thiệp để bảo vệ cá nhân.

Được khuyến nghị có điều kiện chống lại việc triển khai như một biện pháp can thiệp có giá trị sức khỏe cộng đồng, mức độ bằng chứng: chắc chắn thấp.

Quần áo tẩm hoá chất

(Insecticide-treated clothing)

Không nên sử dụng quần áo được xử lý bằng hoá chất như một biện pháp can thiệp có giá trị sức khỏe cộng đồng; tuy nhiên, quần áo được xử lý bằng hoá chất diệt côn trùng có thể có lợi như một biện pháp can thiệp nhằm bảo vệ cá nhân ở các nhóm dân cư cụ thể.

Được khuyến nghị có điều kiện chống lại việc triển khai như một biện pháp can thiệp có giá trị sức khỏe cộng đồng, mức độ bằng chứng: chắc chắn thấp.

Phun khôn gian

(Space spraying)

Không nên thực hiện phun hoá chất trong không gian để phòng chống bệnh sốt rét và thay vào đó nên ưu tiên IRS hoặc LLINs.

Được khuyến nghị có điều kiện chống lại việc triển khai, mức độ bằng chứng: chắc chắn thấp.

Nguồn: WHO (2019), Guidelines for malaria vector control

Thực trạng cung ứng và sử dụng ITNs

Kể từ năm 2000, hơn 2 tỷ ITNs đã được cấp phát các quốc gia có bệnh sốt rét lưu hành và việc mở rộng quy mô nhanh chóng này cho đến nay là nhân tố lớn nhất góp phần làm giảm tỷ lệ mắc bệnh sốt rét một cách ấn tượng kể từ đầu thế kỷ. Từ năm 2000 đến năm 2020, tỷ lệ phần trăm toàn bộ dân số có nguy cơ ngủ trong ITNs đã tăng từ 2% lên 43%. Sự đóng góp của IRS cho các nỗ lực phòng chống bệnh sốt rét cũng rất quan trọng nhưng khiêm tốn hơn, với tỷ lệ dân số có nguy cơ được bảo vệ đã giảm từ 5,8% năm 2010 xuống còn 2,6% vào năm 2020.

Các nhà sản xuất đã cung cấp khoảng 220 triệu ITNs cho các quốc gia lưu hành bệnh sốt rét vào năm 2021, ít hơn 10 triệu so với năm 2020 và ít hơn 34 triệu so với năm 2019 (Hình 2). Khoảng 94% tổng số ITNs do các nhà sản xuất cung cấp đã đến các quốc gia ở châu Phi cận Sahara. Trong số này, 46% là màn tẩm pyrethroid–piperonyl butoxide (PBO) và 9% là ITNs hoạt chất kép.Trong số các ITNs này, 176 triệu ITNs đã được phân phối ở châu Phi cận Sahara. Hơn một nửa tổng số màn được phân phối ở châu Phi cận Sahara được phân bổ ở 5 quốc gia: Cộng hòa Dân chủ Congo (22,6 triệu), Côte d'Ivoire (21,7 triệu),Kenya (17,9 triệu), Ghana (17,8 triệu) và Nigeria (16,4 triệu). Trong số 25,1 triệu màn được phân phối bên ngoài khu vực châu Phi cận Sahara, 90% được phân phối ở sáu quốc gia: Ấn Độ (16,2 triệu), Yemen (1,8 triệu), Papua New Guinea (1,6 triệu), Việt Nam (1,5 triệu), Bangladesh (0,9). triệu) và Campuchia (0,6 triệu).


Hình 2. Số lượng ITNs do nhà sản xuất cung cấp và phân phối bởi chương trình sốt rét quốc gia, 2010–2021
Nguồn: Milliner Global Associates và NMP báo cáo cho AMP và WHO.


.Hình 3. Các chỉ số về khả năng tiếp cận (hình a) và sử dụng (hình b) ITNs ở cấp độ dân số, Châu Phi cận Sahara, 2000-2021
Nguồn: Mô hình bao phủ ITN của Dự án Malaria Atlas

Đến năm 2021, 68% hộ gia đình ở khu vực cận Sahara châu Phi có ít nhất một ITN, tăng từ khoảng 5% vào năm 2000. Tỷ lệ hộ gia đình sở hữu ít nhất một ITN cho mỗi hai người đã tăng từ 1% năm 2000 lên 38% vào năm 2021. Trong cùng thời gian, tỷ lệ dân số tiếp cận ITN trong hộ gia đình của họ đã tăng từ 3% lên 54%. Tỷ lệ dân số ngủ trong ITNs cũng tăng lênđáng kể từ năm 2000 đến năm 2021 đối với toàn bộ dân số (từ 2% đến 47%), đối với trẻ em dưới 5 tuổi (từ 3% đến 53%) và đối với phụ nữ mang thai (từ 3% đến 53%). Nhìn chung, khả năng tiếp cận và sử dụng ITNs tại khu vực cận Sahara châu Phiđã giảm từ năm 2017 (Hình 3).

Như vậy, ITNs là biện pháp can thiệp phòng chống véc tơ sốt rét được sử dụng rộng rãi nhất. Phân tích mô hình cho thấy ITNs là động lực chính làm giảm gánh nặng và lây truyền bệnh sốt rét trong giai đoạn 2005-2015, đặc biệt ở những nơi có tỷ lệ lưu hành sốt rét trung bình đến cao. Bất chấp tình trạng kháng pyrethroid phổ biến, WHO cho rằng LLINs tiếp tục cung cấp sự bảo vệ tốt hơn so với màn không được tẩm hoá chất và khuyến khích tiếp tục sử dụng chúng để phòng chống bệnh sốt rét.

Kể từ năm 2015, tiến bộ chống lại bệnh sốt rét đã chậm lại (và điều này đã chậm lại ngay cả trước đại dịch COVID-19), đặc biệt là ở những nơi có mức độ lưu hành bệnh ở mức độ trung bình và cao. Nhiều yếu tố có thể đã góp phần vào tình trạng này, bao gồm sự trì trệ tài trợ cho bệnh sốt rét trong bối cảnh dân số ngày càng tăng ở các quốc gia có mức độ lây truyền từ trung bình đến cao, khoảng cách đáng kể trong các can thiệp phòng chống và điều trị, các mối đe dọa sinh học đối với các biện pháp can thiệp sốt rét, những thách thức bổ sung về sức khỏe và các trường hợp khẩn cấp nhân đạo khác.

WHO vẫn cho rằng LLINs là công cụ phòng chống véc tơ chính ở hầu hết các quốc gia lưu hành bệnh sốt rét, các yếu tố làm giảm hiệu quả của chúng (và hiệu quả của ITNs nói chung) trong phòng chống sốt rét có thể sẽ đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phòng chống sốt rét. Các yếu tố này có thể được nhóm thành 4 loại chính:

§Kháng hoá chất diệt côn trùng dẫn đến làm giảm tác dụng của LLINs trong việc xua và diệt muỗi;

§Các ràng buộc về hoạt động và hành vi (ví dụ như cung cấp, truy cập, phạm vi bao phủ và khả năng chấp nhận, sử dụng, bảo quản và lưu giữ);

§Độ bền vật lý, bao gồm tính nguyên vẹn của vải; và độ bền hóa học (hiệu quả sinh học), là sự sẵn có của một hoặc nhiều hoạt chất trên bề mặt lưới theo thời gian;

§Động lực học của véc tơ (hành vi đốt và nghỉ của loài).


(Còn nữa) à Tiếp theo Phần 2

Ngày 24/04/2024
BS. Nguyễn Công Trung Dũng  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích