Nhiễm ký sinh trùng Anisakis spp. ở người từ nguồn thực phẩm thủy hải sản chưa được quan tâm: cần mô hình tích hợp y học biển-ký sinh trùng (tiếp theo)
3. Lây truyền và một số nét dịch tễ họcCon người nhiễm do nuốt phải ấu trùng giai đoạn 3 (L3) khả năng còn sống trên cá và mực, đặc biệt trong các mô cơ của cá và mực vì các khoang phủ tạng chứa chúng. Tuy nhiên, một cá nhỏ được ăn nguyên con, trong đó ấu trùng giun trong khoang cơ thể cũng có thể gây ra bệnh Anisakiasis. Hầu hết các loài cá teleost được nghiên cứu khắp đại dương có thể đóng vai trò như những vật chủ của ấu trùng Anisakis spp. Kết quả từ việc tiêu thụ cá hay một số loài mực nhiễm. Vậy trên nguồn cá hoang dại và cá nuôi liệu có nhiễm các KST Anisakis spp. hay không? Ngư dân biết sự hiện diện của các KST này trong cá hàng thế kỷ nay. Trên một số cá như cá trích, chúng rất giàu có trong biển và được xem là nguồn thực phẩm chính (van Beneden, 1870). Templeman và cộng sự (1957) đưa ra các chú ý về vấn đề thương mại về ấu trùng Porrocaecum (=Pseudoterranova) và Anisakis spp. trong cá, đặc biệt cá tuyết. Hình 3. Tỷ lệ Anisakis spp. trên các nhuyễn thể tại các vùng địa lý khác nhau của Đông Bắc Atlantic Ocean và Biển Địa Trung Hải.
4. Chu kỳ sinh học của Anikasisspp. Anisakis spp. có một chu kỳ sinh học và phát triển khá phức tạp qua rất nhiều vật chủ để hoàn thành chu kỳ. Trứng đẻ ra trong nước biển và ấu trùng được ăn vào bởi các loài nhuyễn thể, thường là Euphausids. Các loài nhuyễn nhiễm ấu trùng tiếp đó bị ăn bởi một loài cá hoặc mực ống. Sau đó, giun phát triển đào hầm đi vào thành ruột và đóng kén trong một lớp áo bảo vệ, thường bên trên và ngoài của các cơ quan sống, nhưng đôi khi trong cơ và dưới da. Giun đóng kén trong ruột non, ăn chất dinh dưỡng và phát triển, giao phối với nhau và đẻ ra trứng vào trong nước biển qua thải phân của vật chủ. Khi ruột của động vật có vú có chức năng giống như người, thì khi đó Anisakis spp. có thể nhiễm vào người do ăn phải các con cá nấu chưa chín hoặc sống bị nhiễm. Chu kỳ sinh học của Anisakis spp. có liên quan đến động vật có vú trên biển và một số loài cá, mực. Chu kỳ được hoàn thành khi một con cá bị nhiễm bởi một loài động vật có vú ở biển, như là cá voi, hải cẩu, cá heo. Giun tròn đóng kén trong ruột non, ăn chất dinh dưỡng và phát triển, bắt cặp với nhau và đẻ ra trứng vào trong nước biển trong phân của vật chủ. Khi ruột của một động vật có vú có chức năng giống như người, thì khi đó Anisakis spp. có thể nhiễm vào người do ăn phải các con cá nấu chưa chín hoặc sống khi chúng đã bị nhiễm. Tính đa dạng trong giống đã được biết đến ngày càng tăng hơn 20 năm qua, với các sựu kiện về tiến bộ trong lĩnh vực di truyền để xác định loìa ngày một tiến bộ. Người ta đã khám phá ra rằng mỗi loài vật chủ cuối cùng là nhà đối với riêng nó về mặt sinh học và về cả mặt di truyền trong việc xác định các loài đồng huyết thống (chị em/sibling species) của Anisakis spp., điều này làm được khi phân lập chúng. Các thử nghiệm này cho phép một tỷ lệ các loài đồng huyết thống trong một cá được sử dụng như một chỉ điểm xác định quần thể của cá. Nhiều thuật ngữ về bệnh do Anisakis spp. đồng nghĩa hay gọi Anisakiases, Anisakiasis, Anisakiosis, Anisakis, hay bệnh giun tròn do ăn cá. Anisakis spp. giai đoạn ấu trùng rất phổ biến trên cá biển hoặc con cá đi ngược dòng sông để đẻ (anadromous fish) và cũng có thể tìm thấy trong các mực ống hoặc mực nang. Ngược lại, chúng không có mặt trong các cá sống trong nước nước có độ mặn thấp, do nhu cầu sinh lý cần để hoàn chỉnh chu kỳ của chúng. Anisakids cũng hiếm gặp ở các vùng có các động vật biển có vú như vùng biển Bắc. Một số KST Pseudoterranova (Phocanema, Terranova) decipiens; Contracaecum spp.; Hysterothylacium (Thynnascaris) spp. cũng được đề cập. Hình 4. Chu kỳ sinh học và phát triển của Anisakis spp. |Nguồn: CDC, 2021
5. Nghiên cứu mặt hình thái Anisakisspp.Anisakis spp. chia sẻ một số đặc điểm chung của tất cả các giun tròn. Thể vermiform có hình tròn khi cắt ra và thiếu sự phân mảnh hoặc phân đoạn, khoang cơ thể bị giảm và hẹp khoang tựa như một túi giả (pseudocoel). Miệng nằm ở phía trước và bao quanh bởi các phần lồi hoặc móc nổi dùng để lấy thức ăn và chịu trách nhiệm cảm giác, với phần hậu môn nằm thẳng góc phía sau. Lớp biểu mô có vảy tiết ra một lớp cutile để bảo vệ cơ thể khỏi dịch tiêu hóa. Hình 5. Hình thái học ấu trùng của các giai đoạn khác nhau của Anisakis spp. Nguồn: https://www.sciencedirect.com/topics/agricultural-and-biological-sciences/anisakis
Vì tất cả KST có một chu kỳ phức tạp liên quan đến nhiều vật chủ, chi tiết của hình thái khác nhau sẽ tùy thuộc vào vật chủ và chu kỳ xảy ra trong vật chủ đó. Trong giai đoạn nhiễm vào cá, Anisakis spp. được tìm thấy trong một vật thể hình nón. Chúng có chiều dài 2 cm, khi chúng không cuộn thành hình nón. Khi ở trong vật chủ cuối cùng, Anisakis spp. lại dài hơn, dày hơn và cứng hơn, để chống chọi với nguy hiểm môi trường của ruột động vật có vú. Bảng 2. Đặc điểm phân biệt về hình thái của Anisakis simplex và Pseudoterranova dicipiens Loài giun ký sinh | Kích thước | Màu sắc | Đặc điểm thường gặp | Vật chủ ký sinh | Đặc điểm hình thái | Vật chủ nhiễm | Anisakis simplex | Dài 18- 36 mm Rộng 0,3 - 0,7 mm | Trắng | Giun trên cá trích | Có sự uốn quăn như cuộn xoắn | Cá trích | Pseudoterranova dicipiens | Dài 25- 60 mm Rộng 0,3 - 1,2 mm | Hơi vàng, hơi nâu hay hơi đỏ | Giun trên cá tuyết | Thẳng hay hình chữ S | Cá tuyết |
6. Một số đặc điểm sinh học phân tử của Anisakis spp. Hiện tại bộ gen của Anisakis spp. sẵn có từ cơ sở dữ liệu trong ngân hàng gen (tham khảo GenBank Taxonomy database), chứa các tên của tất cả KST được trình bày trong cây phả hệ di truyền và đã giải trình tự của cả giống và loài Anisakis spp.Về dữ liệu cấu trúc phân tử và đặc điểm di truyền, nhiều nghiên cứu tập trung phân tích ấu trùng và con trưởng thành Anisakisspp. nhờ vào kính hiển vi điện tử quét (SEM_Scanning Electron Microscopy) và tiếp cận phân tử. Phân tích trên hệ gen cytochrome c-oxidase subunit 2 (mtDNA cox-2), 28S rRNA và vùng ITS1, 5,8S và ITS2 khuếch đại chuỗi PCR đã đánh giá là có liên quan phả hệ di truyền. Hình 6. Ký sinh trùng Anisakis spp trên hải sản từ Biển - Chợ - tới tay người tiêu dùng
Các giun Anisakis spp. tìm thấy nhiễm trên người do ăn thực phẩm biển còn sống hoặc chưa nấu chín. Ngày nay, chỉ có A. simplex và P. decipiens là được báo cáo các ca bệnh nhiễm trên người. 7. Bệnh học và triệu chứng lâm sàng đa dạng 7.1. Bệnh học và triệu chứng Bệnh do Anisakis spp. nói chung được đề cập tình cờ khi liên quan đến các bệnh cấp ở người. Phổ lâm sàng đa dạng với nhiều triệu chứng lâm sàng không lệ thuộc vào loài nhiễm của KST thuộc Anisakid qua một số ca được báo cáo trên y văn. Về bản chất, bệnh do Anisakis spp. thường được chẩn đoán khi bệnh nhân cảm thấy ngứa như kim châm hoặc cảm giác ngứa ngứa buồn buồn trong họng, ho hoặc có thể thấy khạc ra giun. Trong trường hợp nặng, bệnh nhân xuất hiện đau bụng cấp giống như một cơn đau ruột thừa cấp đi kèm cảm giác buồn nôn. Các triệu chứng xảy ra từ một giờ đến vài tuần sau khi nhiễm phải Anisakis spp. trong hải sản nấu chưa chín, hay còn sống. Một giun tròn có thể phục hồi sự sống trên bệnh nhân, các giun tròn dạng ấu trùng này từ trong cá hoặc các động vật biển có vỏ bao như sò, vẹm, tôm, cua, trai thường chúng sẽ “đào hầm” trong đường tiêu hóa đến các lớp cơ niêm (đôi khi chúng cũng đi xuyên qua thành ruột hoàn hảo và có thể tìm thấy trong các khoang cơ thể). Chúng sinh ra các chất có thể hấp dẫn các bạch cầu ái toan (BCAT) đến và các tế bào máu của vật chủ khác đến vùng nhiễm này. Các tế bào thâm nhiễm dạng u hạt trong các mô được bao quanh khi nhiễm giun. Trong thành đường tiêu hóa, giun có thể tách ra hoặc tái dính trở lại với một vùng khác nào đó trong ruột. Anisakis spp. hiếm khi trưởng thành hoàn toàn trong người và thường bị loại khỏi cơ thể một cách tự phát khỏi đường tiêu hóa trong vòng 3 tuần sau khi nhiễm. Số ca được chẩn đoán và phát hiện hằng năm vẫn còn thấp, điều này cho thấy số liệu này chỉ là “tảng băng nổi” (ice berg). Bệnh lây truyền qua con đường ăn hải sản sống, nấu chưa chín hoặc để đông lạnh không đủ nhiệt độ và thời gian để giết chết giun trong cá hoặc trong các thực phẩm biển có vỏ. Gần đây, tỷ lệ ca nhiễm này hiện đang gia tăng vì tăng số dân ăn thức ăn dưới dạng sushi/ sashimi rất nhiều. Nhóm đối tượng chính gồm có những khách hàng mua các thực phẩm biển còn sống hoặc chưa được xử lý chín. Một số vụ dịch đã được báo cáo trên y văn dạng ca bệnh lẻ tẻ, nhưng gần đây số ca tăng hơn. Nhật Bản là có số ca lớn nhất được báo cáo vì số lượng cá sống được tiêu thụ ở đây quá lớn. Một số báo cáo ca bệnh xảy ra tại Mỹ với số ca từ 50-100 ca mỗi năm liên quan đến tiêu thụ và ăn các món ăn sushi hoặc cá chưa nấu chín và tại đây cũng đã chỉ ra bệnh do Anisakis spp. dễ bị chẩn đoán nhầm với viêm ruột thừa cấp, bệnh Crohn, loét dạ dày hoặc ung thư dạ dày ruột. Hình 7. Ký sinh trùng Anisakis spp trên hải sản từ biển (cá và mực)
Mức độ gây bệnh của KST Anisakis spp. thay đổi và phụ thuộc vào các yếu tố như loài vật chủ, khu vực địa lý, thời gian của năm và các đặc tính đặc biệt mỗi loài. Con người là một vật chủ tình cờ duy nhất làm gián đoạn chu kỳ ký sinh. Bệnh do Anisakis spp. gây ra là một dạng nhiễm trùng đường tiêu hóa do người đã ăn cá bị nhiễm bệnh khi ăn sống, không nấu đủ chín, hoặc đã xử lý không đảm bảo để ấu trùng sẽ bị tiêu diệt (ướp, ngâm dấm, ướp muối, hun khói lạnh, sấy khô). Xu hướng ẩm thực này đã phát triển trong những năm gần đây sang nhiều nước khác do du lịch toàn cầu và gia tăng bệnh do Anisakis spp. Các triệu chứng lâm sàng là đau bụng, buồn nôn, nôn mửa và tiêu chảy. Ấu trùng cũng có thể gây các phản ứng dị ứng từ phát ban tới các phản ứng phản vệ nghiêm trọng. Sau đó nhiều phản ứng di ứng do Anisakis đã được báo cáo, đặc biệt ở Nhật Bản và Tây Ban Nha.Nhiễm loài KST biển loại A. simplex gây nên các tổn thương mô trực tiếp sau khi chúng xâm nhập vào thành ruột, phát triển dạng u hạt tăng bạch cầu ái toan, sự thủng ruột hay đường tiêu hóa gây nên các phản ứng dị ứng rất mạnh. Đặc điểm lâm sàng có tần suất cáo nhất liên quan đến dị ứng do KST Anisakis là mày đay có hoặc không kèm theo phù mạch ở mặt (facial angioedema). Thỉnh thoảng, sốc phản vệ có thể xảy ra trên các bệnh nhân có biểu hiện dị ứng do Anisakis. Audicana và cộng sự báo cáo đặc điểm lâm sàng của dị ứng do A. simplex trên 67 bệnh nhân ở Tây Ban Nha: mày đay/ phù mạch đều óc trên tất cả bệnh nhân, các triệu chứng tiêu hóa xảy ra trên 40% số bệnh nhân, và sốc phản vệ là 12%. Toàn bộ, 88% só bệnh nhân có biểu hiện tăng nồng độ IgE huyết thanh. Các đặc điểm không thường gặp của bệnh Anisakiasis gồm viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan do bệnh Anisakis (Anisakis-induced eosinophilic gastroenteritis), bệnh nghề nghiệp, đặc điểm bệnh khớp và viêm da tiếp xúc. Nhân đây, nhóm nghiên cứu xác định các triệu chứng dị ứng thường gặp nhất là cấp tính hoặc mày đay mạn tính và phù mạch, được nhìn thấy trên các bệnh nhân, đau bụng và sốc phản vệ chỉ chiếm 30%. Hầu hết các bệnh nhân đều óc nồng độ IgE trong huyết thanh toàn phần tăng cao. Nghiên cứu này chỉ ra đặc điểm lâm sàng của bệnh Anisakisspp. trên 10 bệnh nhân đầu tiên nhiễm Anisakis spp. có dị ứng tại Hàn Quốc. Và qua 10 ca bệnh này cho thấy các phản ứng dị ứng do Anisakis spp. nên cân nhắc và đặt ra vấn đề chẩn đoán phân biệt với nhiều bệnh có phản ứng dị ứng khác, với mày đay và sốc phản vệ, đặc biệt nếu bệnh nhân có ocw địa dị ứng và trong tiền sử bệnh có dị ứng thức ăn. A. simplex là một trong những dị nguyên không rõ ràng hoặc bị che dấu hay khó phát hiện nhất trong thực phẩm. Añíbarro và cộng sự đã mô tả vai trò của các dị nguyên ẩn danh này trong các phản ứng dị ứng. Báo cóa cho biết 530 phản ứng dị ứng có liên quan đến thực phẩm, 119 (22,4%) trường hợp liên quan đến đáp ứng với các dị nguyên “ẩn danh”. Ngoài ra, 65 phản ứng (12%) là sốc phản vệ và 38 (58,5%) do dị nguyên ẩn danh. Añíbarro và công sự cũng cho thấy rằng A. simplex là nguyên nhân của 58% trường hợp sốc phản vệ và là nguyên nhân hay gặp nhất của phản ứng dị ứng ẩn danh hay gặp nhất của thực phẩm (45%), tiếp sau đậu (13%) và cá (7,9%). Do đó, A. simplex cũng nên là tác nhân nên được cân nhắc như một yếu tố dị nguyên liên quan đến phản ứng dị ứng thực phẩm. Hình 8. Cá và bộ phận phủ tạng của cá biển ẩn chứa nhiều ký sinh trùng Anisakis spp.
Các loài cá thường có liên quan đến dị ứng bệnh do Anisakis spp. là cá me lúc thuộc họ cá tuyết, cá trổng, cá thu, mặc dù các nghiên cứu dã báo cáo các loài cá này theo thứ tự khác nhau về tầm quan trọng và vai trò của chúng. Trong nghiên cứu này, flatfish và cá chình biển được xem là những tác nhân hay gặp nhất, tiếp đó là mực nang, mực ống, ốc xoắn, cá ngừ. Các kết quả này khác với các nghiên cứu khác,so với tại Hàn Quốc và tại các quốc gia khác. Flatfish và cá chình thường được dùng để ăn sống tại Hàn Quốc; Seol và cộng sự trình bày nguồn chính của nhiễm Anisakis spp. trên các bệnh nhân chính là cá chình Conger myriaster. Chẩn đoán bệnh dị ứng do Anisakis spp. là dựa trên 3 tiêu chuẩn: một tiến trình bệnh sử phù hợp như mày đay, phù mạch hoặc sốc phản vệ sau khi ăn cá; một phản ứng da dương tính theo phương pháp lẩy da hoặc sự có mặt của kháng thể IgE đặc hiệu với loài A. simplex trong huyết thanh; và thiếu một phản ứng với protein đối với vật chủ cá. Trong nghiên cứu này, tất cả bệnh nhân có tiền sử có tiền sử bệnh phù hợp với di ứng Anisakis và có nồng độ kháng thể IgE đặc hiệu cao trong huyết thanh với tác nhân A. simplex. Tất cả bệnh nhân, có ngoại lệ 3 trường hợp từ chối xét nghiệm, cho thấy đáp ứng âm tính với vật chủ cá qua phản ứng lẩy da. Thất bại thực hiện trong 3 trường hợp trên có thể là một mặt giới hạn của nghiên cứu. Các điều trị tốt nhất cho bệnh Anisakiasis là phòng bệnh. ấu trùng không thể sống sót trong nhiệt độ > 600C trong 10 phút hoặc < -200C trong 24 giờ. Đề nghị mọi người nên tránh ăn các thức ăn biển, đặc biệt là cá sống, trong khi mắc bệnh thì nên giám sát các triệu chứng và phát hiện kháng thể đặc hiệu IgE với A. simplex. Nhóm Sung-Jin Choi và cộng sự đang công tác tại khoa Dị ứng và thấp học của đại học y khoa Ajou, Suwon, Hàn Quốc; khoa nội, ĐH Quốc gia Jeju (Hàn Quốc); Khoa Tai mũi họng, ĐH Y khoa Kyunghee, Seoul (Hàn Quốc) cùng tiến hành nghiên cứu cho biết ấu trùng Anisakidae có thể gây bệnh Anisakiasis khi người tiêu hóa phải chúng. Mặc dù một số nhóm đã báo cáo về dị ứng trong bệnh Anisakis spp. trên đường tiêu hóa trong số những đối tượng người Tây Ban Nha và Nhật Bản, song báo cáo ở đây là lần đầu tiên tóm lượt các đặc điểm lâm sàng của 10 trường hợp nhiễm Anisakis dị ứng tại Hàn Quốc. Tổng số 10 bệnh nhân Hàn quốc (6 nam và 4 nữ) có triệu chứng phàn nàn là dị ứng nghiêm trọng sau khi ăn phải cá sống hoặc thực ăn từ biển. Sự mẫn cảm với Anisakis được xác định bằng phát hiện kháng thể IgE đặc hiệu với Anisakis simplex trong huyết thanh các bệnh nhân. Các đặc điểm lâm sàng hay gặp nhất của bệnh Anisakiasis là ngứa, mày đay (100%), theo sau bởi đau bụng (30%) và sốc phản vệ (30%). Tất cả bệnh nhân cho thấy có triệu chứng cũng biểu hiện một lượng kháng thể cao là IgE trong máu (0,45-100 kU/L) đối với A. simplex. 9/10 bệnh nhân(90%) có biểu hiện atopy và tăng nồng độ IgE trong huyết thanh rất cao. Các loài cá nghi ngờ bị nhiễm Anisakis là flatfish (40%), cá lạc hay cá chình biển (40%), mực ống (30%), ốc biển (10%), cá ngừ (10%). Anisakis simplex nên được xem là một tác nhân gây diự ứng thực phẩm (food allergen) ở bệnh nhân người lớn khi óc biểu hiện mày đay, phù mạch, sốc phản vệ sau khi tiêu thụ các thức ăn biển còn sống hoặc nấu chưa chín. Sự phát triển của dị ứng thực phẩm đang ngày càng gia tăng liên quan đến tiêu thụ thức ăn trên phạm vi toàn thế thế giới. Tại Mỹ, khoảng 6% trẻ em và trẻ em nhỏ, 3.7% người lớn biểu hiện một số mức độ khác nhau về phản ứng dị ứng với một vài thực phẩm. Các thực phẩm chính nguyên trên trẻ em là sữa bò, trứng, đậu phụng, bột mì, hạt đậu, cá, các thức ăn biển có vỏ như tôm, cua, trai, sò, vẹm là các thực phẩm đứng đầu danh sách. A. simplex là loại giun tròn thuộc bộ Ascaridida, họ Anisakidae, họ phụ Ascaridoidea. Bất kỳ cá hoặc loài động vật thâm mềm nào đều có thể bị ký sinh bởi ấu trùng giai đoạn 3 của Anisakis. Các loại cá thu, cá tuyết, cá meluc thuộc họ cá tuyết, cá trổng, cá mòi, cá ngừ, mực ống cũng là trong số các loài dễ nhiễm KST tần số cao nhất. Sự tiêu hóa hoặc ăn phải ấu trùng giia đoạn 3 của Anisakis có thể gây nên bệnh Anisakiasis ở người. Các triệu chứng của bệnh Anisakiasis tăng lên khi giun đi xuyên qua niêm mạc dạ dày, dẫn đến các triệu chứng thuộc vùng ổ bụng và phản ứng dị ứng. Van Thiel và cộng sự (1960) báo cáo ca đầu tiên về bệnh Anisakiasis, tại Netherlands năm 1960. Sau đó, nhiều trường hợp được báo cáo tại nhật Bản, Tây Âu là những nơi thường ăn cá sống. Kim và công sự (1971) cũng báo cáo một trường hợp ấu trùng Anisakis có mặt trong vùng hầu họng ở người như một ca bệnh đầu tiên tại Hàn Quốc. Tiếp theo đó, một số bệnh nhân bị bệnh Anisakiasis cấp và biểu hiện chủ yếu là triệu chứng dạ dày ruột như đau bụng, buồn nôn, nôn mửa đã được phân tích và làm rõ thông qua nội soi dạ dày tá tràng. Desowitz và cộng sự (1985) mô tả một phương pháp phát hiện kháng thể đặc hiệu IgE chống lại A. simplex. Từ thời gian đó, Kasuya và cộng sự cũng đã xác định tiềm năng gây dị ứng của A. simplex trên 2 ca lâm sàng và đã nhấn mạnh loại KST này là tác nhân gây bệnh liên quan đến ăn cá sống trên các bệnh nhân có nổi mày đay. Tại Hàn Quốc, Kim và cộng sự đã báo cáo ca bệnh đầu tiên Anisakiasis có dị ứng dạ dày ruột sau khi bệnh nhân ăn cá sống ở đảo Jeju, chưa có báo cáo nào đề cập đến phản ứng dị ứng do Anisakis, mặc dù người dân Hàn Quốc tự do ăn cá sống rất nhiều. 10 bệnh nhân (6 nam và 4 nữ) có triệu chứng đau bụng xuất hiện, biểu hiện mày đay và phù mạch cấp hoặc mạn tính, hoặc sốc phản vệ ít hơn 24 giờ sau khi ăn phải các thực phẩm biển được đưa vào trong nhóm nghiên cứu này. Sự nhạy cảm hay đúng hơn là mẩn cảm với loài A. simplex được đánh giá thông qua phát hiện kháng thể đặc hiệu IgE đối với A. simplex (bộ chẩn đoán do ImmunoCAP System; Phadia, Uppsala, Sweden cung cấp). Nhóm nghiên cứu đã theo dõi và ghi nhận các thông số lâm sàng của mỗi bệnh nhân, gồm tuổi, giới, triệu chứng dị ứng, loài cá đã ăn, viêm mũi dị ứng, các bệnh dị ứng liên quan gồm dị ứng thực phẩm, tình trạng viêm da cơ địa (atopic dermatitis), hen phế quản, mày đay mạn tính và tình trạng cơ địa khác (atopy). Hình 9. Anisakis spp. ký sinh trong các cơ thịt của cá biển và mực biển
Tổng số bạch cầu eosin trong máu ngoại vi xét nghiệm trên mỗi bệnh nhân. Nhóm nghiên cứu cũng đã đo lượng IgE toàn phần trong huyết thanh, lượng kháng thể IgE đặc hiệu với A. simplex, và lượng protein của bạch cầu ái toan (eosinophile cationic protein_ECP) sử dụng hệ thống máy miễn dịch ImmunoCAP System (Phadia). Kháng thể đặc hiệuIgE với Anisakis spp. được xem là dương tínhkhi kết quả cho giá trị ngưỡng > 0,35 kU/L. Tình trạng tạng dị ứng hay chứng dị ứng do di truyền (atopy status) được xác định trên các bệnh nhâncó đáp ứng dương tính với một hay nhiều dị nguyên như các con mạt nhà, phấn hoa, phấn cây rừng thông qua phản ứng lẩy da dị ứng. Các đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm trên 10 bệnh nhân nhiễm Anisakis spp. biểu hiện dị ứng được tổng hợp trong bảng. Tuổi trung bình là 50 tuổi (22 - 71). Tất cả 10 bệnh nhân có nồng độ IgE đặc hiệu với A. simplex, giá trị dao động 0,45-100 kU/L, điều này không liên quan đến độ trầm trọng của bệnh cũng như mức độ dị ứng. 9/10 ca bệnh (90%) có kiểu tạng dị ứng. Nồng độ IgE toàn phần trong huyết thanh của 9 bệnh nhân này đều tăng. Đếm chỉ số BCAT trong máu ngoại vi đều trên ngưỡng chuẩn bình thường ở 2 ca, một trong số đó không có nồng độ ECP tăng. Mày đay mạn tính đươc chú ý trong 4 ca (40%), dị ứng thức ăn được ghi nhận trong 3 ca (30%), viêm mũi dị ứng 2 ca (20%). Hen phế quản và viêm da cơ địa không xác định trên bệnh nhân dị ứng do Anisakis. Lâm sàng hay gặp nhất trong nghiên cứu là mày đay hoặc phù mạch (100%), tiếp đó đau bụng (30%) sốc phản vệ (30%). Cá được xem là lây truyền KST, chủ yếu là cá (40%), cá lạc (40%), mực ống (30%), ốc xoắn (10%) và cá ngừ (10%). (Tiếp theo Phần 3)
|