Home TRANG CHỦ Chủ nhật, ngày 09/03/2025
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 5 3 0 7 8 2 2
Số người đang truy cập
3 7 3
 Chuyên đề Sinh học phân tử
So sánh tính nhạy kháng với thuốc sốt rét của hai loài Plasmodium malariae Plasmodium falciparum ở Mali (Tiếp theo và hết)

KẾT QUẢ

P. malariae gây sốt rét có triệu chứng &có một tỷ lệ cao trường hợp sốt rét không triệu chứng

Hơn 4000 người tham gia được phân bố thành hai nhóm: Nhóm có triệu chứng (n=2145) và Nhóm không triệu chứng (n=2025) đã được sàng lọc trong nghiên cứu này (Hình 1). Người tham gia được tuyển chọn trong mùa lan truyền thấp (tháng 1 - 3 và tháng 10 - 12), cho phép phát hiện các trường hợp đơn nhiễm các loài không phải P. falciparum (Hình 2a). Kết quả P. falciparum được phát hiện nhiều nhất chủ yếu ở trên những người tham gia có triệu chứng vào cuối mùa lan truyền sốt rét cao từ tháng 10 đến tháng 12, tương tự như P. ovale (Hình 2b và d).

Không giống như P. falciparumP. ovale, các trường hợp P. malariae chủ yếu được phát hiện từ tháng 1 đến tháng 3, chủ yếu ở những người tham gia không có triệu chứng (Hình 2c).Ở những người tham gia có triệu chứng, P. falciparum là loài phổ biến nhất (96,84%), tiếp theo là P. malariae (2,38%), P. ovale (0,15%) và nhiễm phối hợp với P. falciparum (0,63%) (Bảng 1).

Khi đánh giá tỷ lệ mắc bệnh trong cùng một nhóm người có triệu chứng, tỷ lệ P. falciparum, P. malariaeP. ovalelần lượt là 58,6%, 1,44% và 0,09% (Bảng 1).Ở những người tham gia không có triệu chứng, nhiễm P. malariae phổ biến hơn (14,53%) so với những người có triệu chứng (2,38%) (Bảng 1).Điều thú vị là tỷ lệ nhiễm P. falciparum thấp hơn ở những người tham gia không có triệu chứng (83,03%) so với những người có triệu chứng (96,84%) (Bảng 1).Tần suất và tỷ lệ mắc P. ovale nhỏ hơn 1% ở cả hai nhóm có triệu chứng và không có triệu chứng (Bảng 1).


Hình 3.(a) Số người tham gia nghiên cứu hàng tháng; (b) Số ca P. falciparum hàng tháng;
(c) Số ca P. malariae hàng tháng; và (d) Số ca P. ovale hàng tháng.
Thanh màu xám đậm và xám nhạt tương ứng với người tham gia hoặc ca bệnh có triệu chứng và không có triệu chứng.

Bảng 1. Tóm tắt tỷ lệ mắc và tần suất nhiễm P.malariae được xác nhận bằng PCR ở quần thể có triệu chứng và không có triệu chứng

P.f

P.m

P.ow

P.f

+ P.oc + P.m

P.f

+ P.m

P.f

+

P.ow

P.f

+ P.oc

Tất cả

các loài

Người tham gia có triệu chứng

Tỷ lệ mắc

58.6

1.44

0.09

0.04

0.27

0.04

0

60.51

Tần suất (%)

96.84

N =1257

2.38

N=31

0.15

N=2

0.07

N=1

0.46

N=6

0.07

N =1

0

100

N=1298

Người tham gia không triệu chứng

Tỷ lệ mắc

11.85

2.07

0.04

0

0.24

0

0.049

14.27

Tần suất (%)

83.04

N =240

14.53, 

N =42

0.34

N =1

0

1.73

N =5

0

0.34

N =1

100

N =289

Pf, P. falciparum; Pm, P. malariae; Pow, P. ovale walikeri; Poc, P. ovale curtisi.

Hiệu lực giảm của các thuốc chống sốt rét hiện tại đối với P. malariae

Các nhà nghiên cứunhắm đến đánh giá độ nhạy của các mẫu phân lậplâm sàng P. malariae mới thu thập trên bệnh nhân với các thuốc chống sốt rét hiện có và đang được sử dụng, bằng cách sử dụng thử nghiệm thuốc Ex vivo 72 giờ theo chu kỳ sống giai đoạn máu 72 giờ của chủng Plasmodium này [Hình 3a-d (Panel 1) và Bảng 2]. Để so sánh, họ đã đưa vào các mẫu phân lậpP. falciparum lâm sàng mới thu thập và chủng 7G8 thích nghi với phòng thí nghiệm kháng chloroquin. Các hợp chất được thử nghiệm trên P. falciparum bằng thử nghiệm thuốc ex vivo 48 giờ theo chu kỳ sống giai đoạn máu 48 giờ của nó [Hình 3a-d (Panel 1) và Bảng 2]. Artemether và lumefantrine ức chế mạnh các mẫu phân lậpP. falciparum và 7G8 với IC50 trong phạm vi nanomolar (Hình 3a và b).

Không giống như P. falciparum, một số lượng đáng kể (khoảng một nửa) các mẫu phân lập thực địaP. malariae cho thấy IC50 rất cao trong khi một nửa còn lại nhạy cảm với artemether và lumefantrine (lần lượt p = 0,0034 và p = 0,0012) (Hình 3a và b, Bảng 2 và 3). Đúng như dự kiến, chloroquine không thể ức chế hiệu quả chủng 7G8 P. falciparumđã từng thích nghi phòng thí nghiệm kháng chloroquine đã biết, thể hiện IC50 tăng cao so với artemether và lumefantrine (Hình 3c). Khi sử dụng chống lại các bản phân lập lâm sàng của P. malariaeP. falciparum, chỉ một nửa số mẫu phân lập được thử nghiệm là nhạy cảm với chloroquine đối với mỗi loài (Hình 3c). Do đó, P. malariae không cho thấy sự khác biệt về độ nhạy với thuốc khi so sánh với P. falciparumsau khi tiếp xúc với chloroquin (p = 0,9367) (Hình 3c). Trong điều kiện không phát hiện được đáp ứng thuốc đối với một mẫu phân lập lâm sàng, 10 μM được sử dụng làm nồng độ tối đa cho thử nghiệm thuốc đáp ứng liều lượng theo mặc định là giá trị IC50.

Các mẫu phân lập không có đáp ứng thuốc (Bảng 2) là những chủng được đưa vào thử nghiệm thuốc kéo dài (Bảng 3). Mặc dù phát hiện thấy độ nhạy cảm giảm đáng kể đối với P. malariae sau khi tiếp xúc với artemether, lumefantrine và chloroquine, nhưng đáp ứng thuốc tương tự chỉ được quan sát thấy ở các mẫu phân lậpP. falciparum trường hợp được điều trị bằng chloroquin, cho thấy một phần ký sinh trùng P. falciparum kháng chloroquin (Hình 3a-c, Bảng 2 và 3). Không giống như ba hợp chất này, piperaquine ức chế hiệu quả cả P. malariaeP. falciparum với không có sự khác biệt đáng kể và giá trị IC50 mạnh đều dưới 100 nM (p = 0,7345) (Hình 3d).

Để chắc chắn về độ nhạy giảm của các mẫu phân lập không nhạy từ Hình 3a-c (Panel 1), một thử nghiệm P. malariae kéo dài 96 giờ và P. falciparum 72 giờ đã được tiến hành [Hình 3e-g (Panel 2) và Bảng 3]. Đối vớiP. malariae, ba hợp chất artemether, lumefantrine và chloroquine mạnh hơn trong thử nghiệm kéo dài 96 giờ (Hình 3e-g, Panel 2). Tuy nhiên, giá trị trung vị IC50 vẫn còn cao với 543,72 nM, 518,88 nM và 1004,77 nM đối với lần lượt thuốc artemether, lumefantrine và chloroquin(Bảng 3).

Trong thử nghiệm kéo dài này, giá trị trung vị IC50 đối với chloroquin tương tự như trung vị IC50 được tìm thấy đối với 7G8 kháng chloroquin đối với cả P. malariae (1004,77 nM) và P. falciparum (1265,89 nM) (Bảng 3)


Hình 4.Độ nhạy thuốc của các mẫu phân lập thực địa P. malariae mới thu thập được so sánh với các bản phân lập P. falciparum và chủng 7G8 trong phòng thí nghiệm.
IC50 của (a) Artemether, (b) Lumefantrine, (c) Chloroquine và (d) Piperaquine đối với P. malariaeP. falciparum. IC50 của (e) Artemether, (f) Lumefantrine và (g) Chloroquin từ thử nghiệm kéo dài thuốc 24 giờ đối với các bản phân lập thực địa
P. malariaeP. falciparum không nhạy cảm đối vớicác bản phân lập thực địa P. malariae và P. falciparum không nhạy Panel 1.
Các thanh IC50 trung vị được hiển thị trong tất cả biểu đồ cho mỗi hợp chất. Pf, P. falciparum; Pm, P. malariae.
Panel 1: Thử nghiệm thuốc vòng đời tiêu chuẩn đối với tất cả các bản phân lập Pf 48h và Pm 72h
Panel 2: Thử nghiệm thuốc vòng đời tiêu chuẩn kéo dài đối với các bản phân lập không nhạy từ Panel 1 Pf 72h Pm 96h

Bảng 2.Tóm tắt IC50 từ thử nghiệm thuốc giai đoạn máu vô tính vòng đời tiêu chuẩn đối với tất cả mẫu phân lập và P. falciparum 7G8

Thử nghiệm thuốc dựa trên vòng đời tiêu chuẩn

Ký sinh trùng

Thử nghiệm

7G8 48 h

Thử nghiệm

các phân lập Pf 48 h

Thử nghiệm

các phân lập Pm 72 h

Hợp chất

Art

Lum

CQ

Art

Lum

CQ

PQ

Art

Lum

CQ

PQ

Số phân lập được thử nghiệm

11

11

11

15

15

15

13

15

15

15

12

Trung vị IC50

 (nM)

1.88

15.47

810.02

6.21

31.94

92.04

33.85

227.5

681.3

1836

30.23

Mean IC50

 (nM)

1.82

16.55

793.91

7.83

36.8

4691.93

35.39

4126.48

4757.19

4545.54

29.34

Phạm vi IC50

 (nM)

0.4–2.9

9.3–27.43

639.2– 894.4

0.2–17.9

11.92– 82.04

22.18– 10 000

27.62– 53.37

3.16– 10000

4.75– 10000

12.26– 10000

18.48– 37.20

Pf, P. falciparum; Pm, P. malariae; Art, artemether; Lum, lumefantrine; CQ, chloroquine; PQ, piperaquine.

Bảng 3.Tóm tắt IC50 từ thí nghiệm kéo dài 24 giờ đối với các mẫu phân lập không nhạy cảm từ Panel 1 hoặc Bảng 2

Thử nghiệm thuốc kéo dài đối với mẫu phân lập không nhạytừ Panel 1

Ký sinh trùng

Thử nghiệm

các phân lập Pf 72 h

Thử nghiệm

các phân lập Pm 96 h

Hợp chất

Art

Lum

CQ

PQ

Art

Lum

CQ

PQ

Số bản phân lập được thử nghiệm

7

6

7

6

Trung vị IC50 (nM)

1006.19

566.67

518.61

912.77

Trung bình IC50 (nM)

1265.89

543.72

518.88

1004.77

Phạm vi IC50 (nM)

611.57–1735.3

239.88–841.46

296.41–672.04

639.92–1831

Pf, P. falciparum; Pm, P. malariae; Art, artemether; Lum, lumefantrine; CQ, chloroquine; PQ, piperaquine.Dấu gạch ngang (-) biểu thị các chủng tách biệt nhạy cảm từ Panel 1

Các hợp chất phát hiện tiên tiến, gồm chất ức chế đặc hiệu PI4K của Plasmodium KDU691 và imidazolopiperazine GNF179 đã ức chế mạnh các mẫu phân lập lâm sàng P. malariae

Khi các chủng phòng thí nghiệm 7G8 P. falciparum tiếp xúc với KDU691, thuốc có khả năng ức chế cao (IC50 trung bình = 24,91 nM). Đối với các chủng phân lập từ thực địa, KDU691 ức chế hiệu quả cả P. malariae (IC50 trung bình = 66,56 nM) và P. falciparum (IC50 trung bình = 48,015 nM) (Hình 4a). Thú vị là giống như KDU691, imidazolopiperazine GNF179 cũng có tác dụng mạnh đối với cả P. malariae (IC50 trung bình = 10,04 nM) và P. falciparum (IC50 trung bình = 6,37 nM) so với chủng phòng thí nghiệm 7G8 P. falciparum (IC50 trung bình = 7,38 nM) (Hình 4b). Do đó, độ nhạy cảm của P. malariae không khác biệt so với P. falciparum khi tiếp xúc với KDU691 và điều trị GNF179 (lần lượt là P = 0,7255 và P = 0,2726) (Hình 4a và b).



Hình 5. Độ nhạy thuốc của các mẫu phân lập thực địaP.malariae mới thu thập so sánh với các mẫu phân lập P. falciparum và chủng 7G8. IC50 của (a) KDU691 và (b) GNF179
đối với 15 mẫu phân lập thực địaP. malariae và 15 mẫu phân lập thực địa P. falciparum từ thực địa.
Giá trị IC50 được tính từ 11 thí nghiệm độc lập đối với chủng 7G8 P. falciparum.
Các thanh IC50 trung vị được hiển thị trong mỗi biểu đồ cho mỗi hợp chất. Pf, P. falciparum; Pm, P. malariae.

BÀN LUẬN

Ở vùng châu Phi, cận sa mạc Sahara, sốt rét từ trước đến nay chủ yếu được quy cho nhiễm loài P.falciparum. Các công cụ giám sát và chẩn đoán hiện tại ở hầu hết các nước châu Phi cận sa mạc Sahara không được thiết kế để xác định và báo cáo chính xác các trường hợp nhiễm không phải P. falciparum, chẳng hạn như P. malariae. Do đó, điều này dẫn đến sự thiếu hụt dữ liệu chính xác về dịch tễ học và khả năng kháng thuốc của P. malariae.

Nghiên cứu hiện tại của chúng tôi tập trung vào việc phát hiện chính xác các loài không phải P. falciparum, chẳng hạn như P. malariae, bằng cách sử dụng các công cụ chẩn đoán kết hợp kính hiển vi và PCR. Nghiên cứu đã chọn các mùa truyền bệnh thấp hơn khi vẫn có thể phát hiện được các trường hợp sốt rét (tháng 1 đến tháng 3 và tháng 10 đến tháng 12) để tuyển chọn những người tham gia vào nghiên cứu này và cũng để giảm thiểu việc phát hiện các trường hợp nhiễm trùng phối hợp với P.falciparum (Hình 2a). Vào tháng 4 và tháng 5, các trường hợp sốt rét khó phát hiện trong khi từ tháng 6 đến tháng 9 là mùa truyền bệnh cao của sốt rét P. falciparum.

Mặc dù P. falciparum được cho là chủ yếu đại diện cho tất cả trường hợp sốt rét qua điều tra, nhưng dữ liệu dịch tễ học về tầm quan trọng của P. malariae còn thiếu, như đã báo cáo trước đây đối với P.vivax ở cận sa mạc Sahara, châu Phi. Dữ liệu này cho thấy tần suất nhiễm P. malariae cao ở quần thể không có triệu chứng, trong khi chỉ có một số ít nhưng quan trọng gây ra sốt rét có triệu chứng. Giống như P. falciparum, nhiễm P. malariae có liên quan đến sốt rét lâm sàng có triệu chứng. Tần suất nhiễm P. malariae cao (15%) ở quần thể không có triệu chứng có thể dẫn đến nhiễm trùng mãn tính kéo dài nếu không được điều trị.

Những trường hợp nhiễm P. malariae không được điều trị này cũng có thể tiến triển thành chứng to lách ác tính do sốt rét và có thể dẫn đến biến chứng đe dọa tính mạng như bệnh nặng và có thể gây tử vong. Ngoài tác động lâm sàng tiêu cực, nhiễm P. malariae có thể dẫn đến tác động kinh tế xã hội tiêu cực quan trọng. Do đó, P. malariae rất phổ biến ở cậnsa mạc Sahara, châu Phi và do đó cần được điều trị và có các công cụ loại bỏ phù hợp. Vì vậy, nghiên cứu này cũng nhằm mục đích xác định các phương pháp điều trị có thể cho sốt rét P. malariae.

Để xác định các liệu pháp điều trị và công cụ can thiệp thuốc như vậy, họ đã thử nghiệm một loạt các thuốc chống sốt rét tham chiếu trên các mẫu phân lập thực địaP. malariae mới được thu thập để so sánh với P. falciparum. Ngoại trừ chloroquine đã bị rút khỏi thị trường ở châu Phi do kháng thuốc của P. falciparum, tất cả hợp chất được thử nghiệm đều có tác dụng mạnh đối với các chủng P. falciparum. Không như P. falciparum, một nửa số mẫu phân lậpP. malariae không nhạy cảm với artemether, lumefantrine và chloroquin trong môi trường thử nghiệm ex vivo. Tất cả mẫu phân lậpP. falciparum được thử nghiệm đều nhạy cảm với cả artemether và lumefantrine với giá trị IC50 tương đương với giá trị thu được với chủng 7G8.

Độ nhạy suy giảm của P. malariae đối với thuốc artemether và lumefantrine đặt ra giả thuyết bổ sung về khả năng kháng thuốc hoặc dung nạp của P. malariae đối với các hợp chất này. Việc giải trình tự toàn bộ hệ gen (Whole Genome Sequencing -WGS) của những ký sinh trùng không nhạy cảm với thuốc so với những ký sinh trùng nhạy cảm là cần thiết để khám phá thêm điều này và xác định bất kỳ dấu hiệu kháng thuốc nào hiện có trong loài P. malariae.

Hơn nữa, việc xác định kiểu hình và kiểu gen như vậy cần được kết hợp với kiến thức về kết quả lâm sàng để xác nhận đầy đủ khả năng kháng thuốc của P. malariae.

Kháng thuốc có thể ảnh hưởng đến hiệu lực của artemether/lumefantrine trong tương lai hiện đang lan rộng ở Đông Nam Á và những nghiên cứu bổ sung như vậy sẽ rất quan trọng để đánh giá xem liệu những rủi ro tương tự có rõ ràng ở cậnsa mạc Sahara, châu Phi đối với P. malariae hay không. Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (US.CDC) đã đề xuất chloroquine để điều trị nhiễm sốt rétP. malariae. Tuy nhiên, chloroquine đã bị rút khỏi nhiều quốc gia ở châu Phi cận hoang mạc Sahara. Khoảng một nửa số mẫu phân lậpP. malariae được thử nghiệm không nhạy với chloroquine.

Trong một thử nghiệm kéo dài, giá trị IC50 tương đương với ký sinh trùng 7G8 kháng chloroquine, cho thấy khả năng kháng chloroquine ở cả hai chủng. Các báo cáo trường hợp cũng chỉ ra sự thất bại của chloroquin và các phương pháp điều trị chống sốt rét khác đối với P. malariae ở người và trong môi trường thử nghiệm in vitro. Các nghiên cứu sâu hơn liên kết sự thất bại lâm sàng của chloroquine với một kiểu gen mã hóa các đột biến được biết là gây ra kháng chloroquine (Pmcrt) và bất kỳ yếu tố di truyền nào khác chịu trách nhiệm cho sự nhạy cảm suy giảm trên thử nghiệm Ex vivo sẽ là cần thiết để chứng minh một cách dứt khoát rằng các chủng P. malariae kháng chloroquine cũng đang lưu hành ở khu vực này của Châu Phi.

Trong một báo cáo trước đây,thất bại trong điều trị bằng artemether/lumefantrine ở người nhiễm P. malariae không liên quan đến đột biến Kelch13. Một giải thích khả thi cho thất bại trong điều trị bằng artemether/lumefantrine đã được đưa ra là phác đồ 3 ngày có thể không tối ưu cho P. malariae do chu kỳ vô tính nội hồng cầu dài 72 giờ của nó.P. malariae cũng có chu kỳ hồng cầu kéo dài. Vì thuốc ACTs và các phương pháp điều trị khác cho P. falciparum đã được phát triển dựa trên chu kỳ sống 48 giờ của P. falciparum và độ nhạy của thuốc do P. falciparum, việc sử dụng thuốc này để điều trị nhiễm trùng P. malariae có thể không đủ. Artemether và lumefantrine là liệu pháp điều trị hàng đầu cho bệnh sốt rét P. falciparum không biến chứng ở một số nước và là phương pháp điều trị sốt rét phổ biến nhất ở khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi.

Những dữ liệu này cho thấy rằng dựa trên cả khả năng giảm độ nhạy cảm của thuốc Ex vivo và nồng độ thuốc tiềm ẩn không tối ưu, thường được thiết kế dựa trên thời gian chu kỳ sống của P. falciparum, cả artemether và lumefantrine có thể không phù hợp để điều trị nhiễm trùng P. malariae.

Ngược lại, piperaquine ức chế mạnh cả loài P. malariaeP. falciparum. Piperaquine được sử dụng để điều trị sốt rét không biến chứng dưới dạng đơn trị liệu để thay thế chloroquine ở Trung Quốc để đáp ứng với tình trạng kháng chloroquin vào những năm 1970. Tuy nhiên, tình trạng kháng piperaquine đã nhanh chóng xuất hiện dẫn đến việc ngừng sử dụng ở Trung Quốc vào những năm 1980 và cho thấy sự kháng chéo với chloroquin. Các mẫu phân lập không nhạy cảm với chloroquine trên Ex vivoở đây đều bị ức chế hiệu quả bởi piperaquine, điều này tương tự như trong một báo cáo trước đây cho thấy không có mối liên hệ giữa độ nhạy cảm với piperaquine và kháng chloroquin. Do đó, thuốc ACT loại Dihydroartemisinine-piperaquine phosphate có thể được dùng như một phương pháp điều trị cứu cánh cho nhiễm trùng P. malariae ở những khu vực chưa báo cáo tình trạng kháng piperaquine ở P. falciparum.

Ngoài ra, các loại thuốc chống sốt rét mới được thử trong thử nghiệm này, bao gồm GNF179 và KDU691 đều tỏ ra mạnh đối với P. malariae. Đây là các loại thuốc chống sốt rét mới có đặc tính tuyệt vời và có thể đại diện cho các ứng cử viên tiên tiến của mỗi loại KAF156 và MMV390048 trong các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn II. Các loại thuốc ứng cử viên có cơ chế tác động mới như imidazolopiperazines và chất ức chế PI4K đặc hiệu có thể được phát triển để có hiệu quả chống lại tất cả các loài Plasmodium. Dữ liệu của chúng tôi đã tiết lộ rằng các phương pháp điều trị P. falciparum có thể được xác định và có khả năng được tái sử dụng để ức chế và điều trị P. malariae một cách hiệu quả.

Dữ liệu hiện tại đối với các chính sách thuốc lưu tiên trong tương lai chống lại P. malariae không biến chứng, P. falciparum hoặc các bệnh nhiễm phối hợp của chúng sẽ là hướng dẫn quản lý và điều trị đúng đắn và hiệu quả các bệnh nhiễm trùng đơn thuần và phối hợp P. malariae với P. falciparum.


Hình 6. Sơ đồ chung về kháng thuốc sốt rét hệ lụy của muỗi mang mầm bệnh kháng thuốc

Dữ liệu về độ nhạy cảm của thuốc có thể ảnh hưởng đến các chính sách thuốc Quốc gia về Quản lý và phòng chống bệnh tật và thậm chí có thể ảnh hưởng xa hơn đến chương trình giảng dạy cho các chuyên gia y tế. Ngoài ra, việc xác định các ứng cử viên thuốc chống sốt rét lâm sàng có cơ chế tác động mới chống lại P. malariae có thể được khai thác để lựa chọn ứng cử viên thuốc tốt hơn có thể ức chế tất cả các loài Plasmodium và được ưu tiên phát triển lâm sàng.

KẾT LUẬN

Ở vùng cận sa mạc Sahara, châu Phi - nơi mà sốt rét phổ biến nhất và nhu cầu y tế lớn nhất, thì loài P. malariae đang được phát hiện ngày càng nhiều với khả năng kháng các loại thuốc hiện naycàng gia tăng. Thông qua nghiên cứu hiện tại đã phát hiện tần suất cao các ca nhiễmP. malariae ở những người không có triệu chứng và tần suất thấp ở những bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng. Đồng thời, đã xác định độ nhạy thuốc của P. malariae và xác định thuốc piperaquine là chất ức chế mạnh đối với tất cả các chủng P. malariae, cho thấy nó có thể là một thành phần trong một tổ hợp thuốc điều trị cứu cánh tiềm năng.

Nghiên cứu cũng cho thấy rằng một số loại thuốc ACT như artemether/lumefantrine có thể bị giảm hiệu quả chống lại P. malariae, cần nghiên cứu thêm để kết luận dứt khoát về điều này. Chúng tôi cũng chứng minh rằng các chất tương tự gần (imidazolopiperazine GNF179 và chất ức chế PI4K KDU691) từ hai hợp chất có hiệu quả lâm sàng, KAF156 và MMV390048, có hoạt tính chống lại P. malariaeP. falciparumnguy hiểm nhất và có thể được xem xét để phát triển như một phương pháp điều trị tiềm năng cho cả sốt rétP. malariaeP. falciparum. Do đó, những loại thuốc chống sốt rét mới này sẽ là những công cụ tuyệt vời để nhắm mục tiêu loại trừ cả P. malariaeP. falciparum.



(Hết)

 

Ngày 18/02/2025
CN. Nguyễn Thái Hoàng & TS.BS. Huỳnh Hồng Quang
(Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn)
 

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn triển khai Dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh theo yêu cầu với phương châm “Nỗ lực hết mình vì người bệnh”


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích