TRANG CHỦ | Thứ 2, ngày 25/11/2024 |
|
|||||||||||||||
|
Triclabendazole: là dẫn suất chlorinated benzimedazole, tên hóa học 6-chloro-[2,3-diclorophenoxy]-2-methyl thiobenzimidazole. So với các thuốc diệt sán khác thì thuốc này có tác động trên cả thể trưởng thành và chưa trưởng thành, các bác sĩ thú y dùng để điều trị thể cấp tính và mạn tính bệnh sán lá ở cừu và bò và gia súc khác và hiện đang dùng cho bệnh SLGL Fasciola hepatica, Fasciola gigantica, Paragonimus westermani và các loài Paragonimus khác ở người tỏ ra hiệu quả với liều 10-12mg/kg kể cả giai đoạn cấp và mạn tính (H.H.Quang và cs., 2005). Điểm qua cơ chế tác dụng triclabendazole trên Fasciola: một nghiên cứu của nhóm tác giả đại học Queensland of Belfast, Bắc Australia theo dõi hiệu quả của chất chuyển hóa sulphoxide từ triclabendazole trên thay đổi hình thái bề mặt vỏ sán, được kiểm chứng qua kính hiển vi quét điện tử (SEM_scanning electron microscopy). Nếu ở nồng độ 10 microg/ml thì tegument của sán sẽ sưng phồng và nổi các bọng nước, sau 6 giờ ủ; dấu hiệu nổi bọng nước chủ yếu xảy ra ở phần chóp. Nếu thời gian ủ với thuốc dài hơn, thì dấu hiệu sưng phồng của chóp càng nghiêm trọng, hậu quả dẫn đến tróc lớp vỏ và mất chóp và nếu sau 18-24 giờ ủ thì lớp vỏ tróc càng lan rộng, thủng lớp tế bào đáy, tạo các lỗ hổng trong lòng sán suốt từ đầu đến chóp sán. Bề mặt của vùng bụng sán bị tác động nghiêm trọng hơn vùng đuôi (Meaney M et al., 2002), cuối cùng sán chết. Dựa trên những nghiên cứu đa trung tâm trên thế giới, thuốc này được Tổ chức y tế thế giới đưa vào danh mục thuốc thiết yếu ở một số quốc gia (WHO Expert Committee on the Use of Essential Drugs- WHO’ list of essential drugs). Thuốc hấp thu và dung nạp tốt trên người, thải trừ chủ yếu qua phân (90%) và còn lại theo đường nước tiểu. Thời gian bán hủy ở dạng chuyển hóa sulfoside trong huyết thanh là 11 giờ, LD50 ở chuột thực nghiệm là > 8000mg/kg và ở thỏ là 206mg/kg. Trên thực hành lâm sàng, liều dùng cho người có thể dùng liều đơn (single dose) hay liều chia 2 (split dose) 10mg/kg cân nặng đều cho hiệu quả như nhau và hiệu quả >98% (H.H.Quang và cs., 2005-2006). Một nghiên cứu khác trên 24 bệnh nhân SLGL mạn tính dùng với liều 10mg/kg uống sau một đêm nhịn đói, có 79,2% sạch trứng sau 2 tháng. Điều trị lần 2 liều như trên thì tỷ lệ sạch trứng đạt 100%, không thấy tác dụng phụ gì, thuốc hấp thu tốt nếu uống sau bữa ăn, tỷ lệ chữa khỏi 100% (Apt và cs., 1995). Thử nghiệm đầu tiên thành công trên người là vào năm 1988, sau đó thuốc được dùng với liều 10-12mg/kg liều đơn hay 2 liều cách nhau 12-48 giờ. Thuốc tỏ ra dung nạp tuyệt vời và dường như không làm thay đổi các thông số huyết học, sinh hoá đáng kể, nếu có sau khi ngưng thuốc thì các thông số này trở về bình thường. Một nghiên cứu gần đây của Viện y tế công cộng, Đại học Alexandria, Ai Cập về hiệu lực của thuốc triclabendazole điều trị nhiễm sán lá gan mạn tính trên 134 bệnh nhân được chẩn đoán sán lá gan, trong đó chia làm 2 nhóm: 68 bệnh nhân nhận liều duy nhất 10mg/kg và 66 bênh nhân nhóm 2 nhận 2 liều cũng 10mg/kg cân nặng nhưng uống vào 2 ngày liên tiếp; kết quả cho thấy sau 5 tuần điều trị, tỷ lệ chữa khỏi nhóm 1 là 79,45% và nhóm 2 đạt 93,9% (Z = 2.54; p < 0.05) không có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ chữa khỏi và không chữa khỏi giữa 2 nhóm nghiên cứu, song số trứng trong phân của 2 nhóm tồn tại khác nhau một cách có ý nghĩa (t = 2.29; p < 0.05) và số ca điều trị thất bại sẽ được điều trị lại tiếp liều thứ 2 (liệu trình 2 ngày liên tiếp như nhóm 2) và kết quả tỷ lệ chữa khỏi là 100%. Như vây, triclabendazole là rất đặc hiệu trên bệnh sán lá gan trên người, nó dung nạp tốt (biểu hiện qua tất cả bệnh nhân đều không thay đổi sinh học gan mật và các marker sinh hoá khác), sau khi uống thuốc, đa phần bệnh nhân có triệu chứng đau nhẹ, cơn đau kiểu colique, một tỷ lệ nhỏ (<0,01%) xuất hiện vàng da, có thể do căng túi mật hoặc viêm túi mật gây ứ trệ dẫn mật, nhưng dấu hiệu giảm dần trong 2 tháng sau đó. Một nghiên cứu trên 251 bệnh nhân sán lá gan lớn F.gigantica thuộc 15 tỉnh thành trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên, qua điều trị bằng Egaten với liều 10mg/kg nhưng phân 2 liệu trình điều trị khác nhau, kết quả cho thấy: mức độ dung nạp thuốc điều trị triclabendazole được đánh giá thông qua các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng. Sau một ngày (thường thấy nhất là sau uống thuốc 10-12 giờ) điều trị triclabendazole, khám lâm sàng thấy biểu hiện tăng đau nhẹ ở vùng hạ sườn (P), đau bụng dạng colique, mệt ngực, khó chịu, buồn nôn nhưng không nôn, một số bệnh nhân xuất hiện cơn sốt run lạnh, sẽ tự hết mà không cần xử trí gỡ. Phần lớn các triệu chứng khó chịu gặp ở nhóm I (liều duy nhất), song ở nhóm II (liều chia đôi) thì không thấy, song cả hai nhóm thì sau 36 giờ (kể từ lúc uống thuốc) các triệu chứng khó chịu trên giảm dần dần và tự mất. Về cận lâm sàng, trong CTM toàn phần, đáng chú ý thông số về eosin và Hb.Trước khi điều trị, 78.88% bệnh nhân có số lượng bạch cầu eosin tăng cao, sau khi điều trị và tiếp tục theo dõi 1-3-6 tháng sau điều trị, khi đó trị số trung bình eosin có hướng giảm dần và trở về trị số bình thường (£ 5% trên tổng BC chung), chứng tỏ các bệnh nhân có đáp ứng tốt với thuốc triclabendazole. Theo một số nghiên cứu báo cáo hiệu quả triclabendazole thường sau 1 ngày lượng eosin có tăng lên nhưng sau đó 1-3-6-12 tháng, trị số này trở về bình thường, điều này có thể giải thích do hiện tượng dội (rebound phenomenon) khi thuốc tác động vào. Ngoài ra, trước khi bệnh nhân điều trị, 5.18% bệnh nhân được xác định có thiếu máu thông qua định lượng Hb, song sau khi điều trị đến tháng thứ 3 thìthông số trở về ngưỡng bình thường đối với tất cả bệnh nhân.Giá trị thông số chức năng gan như alkalin phosphatase trên mức bình thường trong 71.31% trường hợp trước điều trị, điều này biểu hiện một sự xơ hóa và tắc nghẽn đường mật, vả lại bệnh SLGL gây tổn thương cả hệ gan mật (hepatobiliary lesion), sau khi điều trị 1-3-6 tháng, giá trị thông số có giảm dần và trở về bình thường vào tháng thứ 6 (100%) có ý nghĩa (p <0.05); thông số SGOT và SGPT có giá trị nằm trong giới hạn bình thường trước khi điều trị, chỉ có 12/251 (4.78%) bệnh nhân có cao hơn mức bình thường và 5/251 (1.99%) bệnh nhân có bilirubine huyết thanh tăng nhẹ, có lẽ do chèn ép đường mật và các thông số sinh hóa này sau khi điều trị 1 tháng có biểu hiện hơi tăng nhưng không đáng kể, nhất là nhóm dùng liều duy nhất, tiếp tục theo dõi sau 3-6 tháng thì các giá trị thông số này trở về bình thường. Riêng ure và creatinin huyết thanh trước và sau điều trị ở cả 2 nhóm đều không có thay đổi đáng kể, chứng tỏ thuốc không làm ảnh hưởng lên chức năng thận trong suốt quá trỡnh theo dõi. Kết quả ELISA cho thấy trước điều trị cả 2 nhóm bệnh nhân đều (+), kết quả này thay đổi về hiệu giá kháng thể trung bìnhsau điều trị và sự chuyển đổi huyết thanh về (-) có ý nghĩa thống kê. Tất cả bệnh nhõn ở hai nhóm trước khi điều trị có hiệu giá kháng thể đều ³ 1/3.200-12.800. Sau 6 tháng điều trị nhóm I có 97.6% (122/125) chuyển đổi huyết thanh về âm tính (» 1/1.600) và nhóm II có 98.41% (124/126) bệnh nhân chuyển đổi huyết thanh về âm tính; do vậy, nhóm I còn 3/125 trường hợp (+) nhưng 2/3 số này vẫn giữ nguyên hiệu giá 1/6.400 và nhóm II cũn 2 trường hợp vẫn giữ nguyên hiệu giá 1/6.400 ở thời điẻm 6 tháng sau điều trị. Chúng tôi tiếp tục dùng liều thứ 2 triclabendazole với lượng gấp đôi 20mg/ kg nhưng không cải thiện được gì (ghi nhận tại thời điểm kiểm tra tháng thứ 9). Tiếp tục theo dõi sau 9 tháng thì 2 trường hợp của nhóm I vẫn còn HGKT 1/6400 cùng với tổn thương trên siêu âm không thu nhỏ hoặc chỉ mờ (1.6%), bệnh nhân vẫn tồn tại triệu chứng lâm sàng tuy nhẹ hơn và 2 trường hợp nhóm II trở về âm tính sau 9 tháng. Suy nghĩ đây là trường hợp đề kháng triclabendazole, chúng tôi tiếp tục xử lý chống kháng bằng metronidazole cho 2 trường hợp nhóm I (Flagyl viên nén 250mg, Aventis) với liều 4 viên/24 giờ uống chia 2 lần trong 2 tuần liên tiếp đó cho kết quả tốt 1 trường hợp và 1 trường hợp còn lại tiếp tục theo dõi đến 12 tháng. Vì lý do không có điều kiện xem dưới kính hiển vi STEM (Scanning Transmission Electron Microscopy) và thực hiện xét nghiệm hóa mô miễn dịch (Immunocytochemistry test) để xác định sự biến đổi cấu trúc tegument của sán khi thuốc tác động vào để phân biệt rõ ràng liệu đây là trường hợp kháng thuốc (resistance),điều trị thất bại (treatment failure) hay tái nhiễm (reinfection) của bệnh nhân đó vì trên thực tế đó có trường hợp kháng thuốc triclabendazole do Fasciola hepatica. Tỷ lệ thất bại của nghiên cứu sau 6-9 tháng (1.6%) tương đương với nghiên cứu khác 1,43% (Đại học Guilan, Tác dụng không mong muốn qua nhiều nghiên cứu về điều trị triclabendazole cho thấy khả năng dung nạp thuốc triclabendazole rất tốt, tác dụng phụ theo thời gian điều trị diễn ra trong thời gian rất ngắn và những phản ứng phụ này có thể do thuốc làm liệt sán, gây chết sán hoặc ly giải kháng nguyên và độc tố hoặc gây tắc nghẽn một phần hoặc toàn phần đường dẫn mật và điều này phù hợp với một số thông báo trong y văn liên quan đến giảm nhu động của ký sinh trựng SLGL, một số triệu chứng hay gặp lại là: sốtvà rét run,nhức đầu, buồn nôn, giải thích nguyên nhân gây sốt có thể do phản ứng phụ thuốc, hoặc phản ứng viêm hệ đường mật trên bệnh nhân thoáng qua, hoặc sốt có thể do phản ứng miễn dịch khi tác động thuốc gây ra tương tác giữa sán -cơ thể hoặc phản ứng tại chỗ đường mật do co thắt đẩy sán chết hay do mắc kẹt trong ống mật (Medrano F và cs., 1999); phản ứng ngứa và nổi mày đay toàn thân, khó chịu và triệu chứng này được giải quyết bằng kháng histamine, khỏi hẳn, ngứa và nổi mày đay xuất hiện sau khi điều trị, có thể do tác động thuốc triclabendazole, tạo ly giải kháng nguyên gây ngứa và bản thân phản ứng miễn dịch do tăng eosin và IgE; đại tiện phân lỏng và sệt, đi phân không thành khuôn là một triệu chứng cũng hay gặp khi điều trị SLGL bằng triclabendazole; nhức đầu và chóng mặt; Một nghiên cứu khác đánh giá trên 245 bệnh nhân nhiễm sán lá gan lớn Fasciola gồm 6 nhóm tại Bolivia, Chile, Cuba, Iran, Peru với liều 10mg/kg và trên 261 bênh nhân sán lá phổi gồm 3 nhóm tại Cameroon và Eucuador với liều 20mg/kg thấy rằng thuốc sử dụng an toàn bằng đường uống, và hiện tại Bộ Y tế một số nước trong đó có cộng hòa Ả Rập đưa thuốc triclabendazole vào danh mục thuốc thiết yếu sử dụng trên người. Tác giả K. Mott đã điều trị trên 50 bệnh nhân Fasciola (đã được chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm phân Kato-Katz, theo dõi lâm sàng, siêu âm, xét nghiệm huyết thanh, công thức máu, chức năng gan và thận) bằng triclabendazole liều 10mg/kg liều duy nhất, theo dõi các chỉ số vào các thời điểm 1 tuần, 30 ngày và 60 ngày sau đIều trị. Kết quả cho thấy, thuốc dung nạp tốt, tác dụng phụ và các chỉ số chức năng gan thận tăng nhẹ rồi trở về bình thường sau 1 tuần đến 1 tháng, tỷ lệ sạch trứng sau 2 tháng là 94% (K.Mott và cs., 1998). Hai nhà nghiên cứu Apt W và Agnilera X điều trị 24 bệnh nhân nhiễm Fasciola tại Chile (được chẩn đoán xác định bằng chuẩn vàng là xét nghiệm phân dương tính) bằng triclabendazole liều 10mg/kg. Kết quả điều trị sau 2 tháng sạch trứng 79,2%, 3 bệnh nhân điều trị lần 2 mới khỏi. Trước điều trị có 83% bệnh nhân có xét nghiệm ELISA (+), sau đIều trị 2 tháng có 40% trường hợp ELISA (-) và 91,3% ELISA (-) sau một năm điều trị; 5/24 bệnh nhân điều trị thất bại, ELISA (+) sau 6 tháng và được điều trị liều 2, sau 6 tháng nữa các bệnh nhân đều khỏi và ELISA (-); thuốc sử dụng rất an toàn và không có tác dụng phụ gì đặc biệt hay rối loạn chức năng gan (Apt W, Agnilera X và cs., 1995). Nghiên cứu được Karaksy H.E và cộng sự thực hiện năm 1999 tại Ai Cập, điều trị cho 40 trẻ emnhiễm sán lá gan lớn bằng triclabendazole với liều 10mg/kg liều duy nhất. Sau hai tháng khỏi 78% (31/40) về các chỉ số lâm sàng, bạch cầu ái toan, ELISA (-) và sạch trứng trong phân. 9/40 em được điều trị lần 2 và sau 6 tháng các em này cũng khỏi hoàn toàn, không có biểu hiện tác dụng phụ gì. Tương tự, tác giả Duki M.R.E và cộng sự tiến hành điều trị cho các bệnh nhi tuổi trung bình là 8 nhiễm sán lá gan lớn, kết quả khỏi bệnh và không thấy tác dụng phụ nào nghiêm trọng. Một vấn đề khó khăn là làm thế nào điều trị cho phụ nữ mang thai (bất luận thời kỳthai) được phát hiện bệnh sán lá gan, liệu triclabendazol có điều trị được an toàn không? theo một số nghiên cứu trên súc vật thực nghiệm cho thấy thuốc có ảnh hưởng lên phát triển phôi thai như dị dạng hay thậm chí gây quái thai; một nghiên cứu khác của nhà sản xuất Novartis cho biết nếu dùng liều gấp 10 lần (100-200mg/kg) cho động vật đã gây ra giảm trọng lượng con vật sinh ra song thử nghiệm trên người chưa có báo cáo nào và các ảnh hưởng khác trên động vật cũng giống như các thuốc điều trị giun sán khác có cùng nhóm benzimidazole: mebendazole, Oxfendazole, Flubendazole và albendazole, trên súc vật thực nghiệm thì thuốc triclabendazole có qua sữa khoảng 1% liều sử dụng, con người thì sao?. Trên người mặc dầu chưa có nghiên cứu nào nhưng các nhà chuyên khoa khuyên các bà mẹ trong giai đoạn cho con bú nên ngưng lại 72 giờ kể từ khi dùng thuốc. Nếu được phải cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích mang lại khi bệnh nhân được điều trị (risk- effectiveness) khi dùng thuốc, chúng ta phải thật nhạy cảm nếu chúng ta thấy ưu điểm lâm sàng và bất lợi khi từ chối điều trị phần nào ảnh hưởng cả mẹ và thai nhi thì cân đối trước khi đưa ra quyết định. PHỔ TÁC DỤNG ĐIỀU TRỊ VỚI LIỀU KHUYẾN CÁO CHỐNG LẠI SÁN LÁ GAN LỚN
Artesunate: Artesunate và các dẫn suất từ lâu được xem là thuốc điều trị sốt rét (một bệnh do đơn bào plasmodium trong máu gây ra) có hiệu quả, nhất là trong các trường hợp điều trị sốt rét nặng và ác tính. Trong nhưng năm gần đây, một số nghiên cứu đa trung tâm đã thử nghiệm tác động của nhóm thuốc này trong việc điều trị bệnh sán lá gan lớnfasciolae. Bước đầu thử nghiệm với liều người lớn: viên artesunate 50mg x 4 viên / ngày x 10-14 ngày liên tục, đường uống, cho thấy có hiệu quả cao gần tương đương với thuốc triclabendazole. Gần đây nhất, một nghiên cứu trong nước đã tổng kết kết quả được đăng tải trên tạp chí y học nổi tiếng American Journal of Tropical Medicine and Hygiene [03/2008; 78(3):388-92] do nhóm nghiên cứu của tiến sĩ Trần Tịnh Hiền và cộng sự thực hiện tại Bệnh viện nhiệt đới thành phố Hồ Chí Minh và Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định trên 100 bệnh nhân cho biết hiệu lực thuốc artesunate trên 100 bênh nhân mắc SLGL rất cao, tuy nhiên kết quả đáp ứng sau 3 tháng có thấp hơn so với nhóm dùng Triclabendazole. Kết quả sau 6 tháng điều trị là gần tương đương về lâm sàng lẫn cận lâm sàng. Một nghiên cứu khác tiến hành thử nghiệm thuốc Artesunate và Artemether với sán lá gan F.hepatica trên in vivo và in vitro cũng cho hiệu quả rất cao, tùy thuộc theo liều điều trị và ủ trong mo hình gây nhiễm thực nghiệm ở chuột do nhóm tác giả Jennifer Keiser và cộng sự tiến hành ở CDC Thượng Hải, Trung Quốc và Viện Y học nhiệt đới Thụy Sĩ đăng tải trên tạp chí The Journal of Antimicrobial Chemotherapy [Volume 57, Number 6, pp.1139-1145]. Một nghiên cứu nữa cũng đánh giá về tính dung nạp và độ an toàn của Artemether lên sán lá F.heptica trên cừu được tiến hành cùng tác giả Jennifer Keiser, Laura Rinaldi và cộng sự. Kết quả cho biết liều 40-80mg/kg không có tác dụng, liều 160mg/kg có tác dụng làm giảm trứng đến 64.9% và giảm lượng sán 91.3% nếu dùng bằng đường tiêm bắp ở cừu, không tác dụng phụ được ghi nhận nhưng có 2 trường hợp sẩy thai sau 7 ngày điều trị; điều này cho thấy Artemether là thuốc có tác dụng tiềm tàng chống lại SLGL nhưng vấn đề độc tính cho phôi thai phải được chú ý. Kết quả này được đăng tải trên tạp chí Parasitology Research, SpringerLink số ra ngày15/5/2008. Myrazid: Đây là một thuốc tinh chiết từ thảo dược có nguồn gốc từ thời thượng cổ, có tên gọi nước hoa hương thơm (myrrh, myrrha, myrrhe), chiết suất từ nhựa cây Commiphora abyssinica Engl. hay C.molmol đều thuộc họ Trám Burseracacae. Các cây này mọc ở vùng Hồng Hải, Somalie, Ethiopia. Thuốc được dùng ở Ai Cập để chế biến thuốc nhựa hoặc thuốc dẽo bôi chống da cháy, thuốc bôi, liền vết thương, trị tim mạch, thuốc trị ung thư, hạ đường huyết, hạ sốt ; nhựa cây còn điều trị các loại giun tròn đường ruột, sán dây, sán máng và điều trị sán lá gan. Ngoài ra, thuốc từ nhựa cây còn có độc tính với các ấu trùng muỗi Culex và Aedes, cũng như ấu trùng sâu gây hại. Nên có nơi dùng như phương thức diệt sinh học trong lĩnh vực côn trùng. Thuốc chiết từ nhựa cây này hiện đang được nghiên cứu hiệu lực điều trị của nó trên nhiễm SLGL tại một số nơi. Hy vọng đây sẽ là thuốc đặc hiệu có khả năng chống kháng khi sán lá gan lớn kháng triclabendazole.
|
|
Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464 Email: impequynhon.org.vn@gmail.com Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng |
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích |